UBPN – Tâm sự của Ma-ri Ma-đơ-len về Chúa Phục Sinh

2656

Giăng 20:1–18

 

Sau hai ngày Chúa tôi được chôn trong phần mộ, tối ngày Sa-bát, trong lúc mọi người đang ngủ say, thì chúng tôi sửa soạn thuốc thơm. Vừa lúc tưng tưng sáng ngày thứ nhất trong tuần, chúng tôi đem thuốc thơm đến mộ để xức xác Đức Chúa Giê-xu.

 

Sự sợ hãi và nghi ngờ đã tấn công tôi từ khi Chúa tôi chịu khổ nạn trên thập giá, rồi trút hơi thở cuối cùng, và được đặt vào phần mộ… Thế nhưng, sự sợ hãi và nghi ngờ ấy không ngăn được tôi đến mộ Chúa tôi để bày tỏ lòng yêu thương và tôn kính Ngài.

 

Khi đến mộ Chúa, tôi nhìn thấy tảng đá lấp cửa mộ đã được lăn sang một bên. Tôi rất ngạc nhiên không hiểu vì sao? Lúc đó, tâm trạng tôi rối bời, trong mắt tôi ngôi mộ trống là một dấu hiệu mất mát. Tôi lo sợ rằng ai đó đã đánh cắp xác của Chúa tôi và giấu đi. Trong tâm trí tôi lúc đó chỉ có một kết luận duy nhất là: có người đã đến trộm xác Chúa đem đi!

 

Đối với tôi trong giây phút này ngôi mộ trống không đem lại cho tôi chút hy vọng hay tin tức tốt lành nào cả. Nó chỉ đơn giản là một sự tuyệt vọng, là điều tôi không thể hiểu biết đủ.

 

Tôi là ai? Tôi là một người phụ nữ quê ở Ga-li-lê. Thực ra, tôi xuất thân từ một thị trấn có nhiều người định cư và thịnh vượng được gọi là thành Ma-đa-la (Ma-ga-đan) ở Ga-li-lê, cũng từ đó người ta đặt tên tôi là Ma-ri Ma-đơ-len.

 

Tôi không phải là kỹ nữ. Tôi không bao giờ, và sẽ không bao giờ là người như thế. Tôi không phải là người phụ nữ lau chân cho Chúa Giê-xu bằng nước mắt và tóc của mình. Tôi không phải em gái của Ma-thê. Và tôi cũng không phải là người ngồi yên lặng dưới chân của người khác.

 

Tôi là một người phụ nữ có một cái tên rất giàu có và phổ biến. Các chị em có biết rằng có 7 người tên Ma-ri được đề cập đến trong các sách Phúc Âm hay không? Tôi không phải là một người phụ nữ phạm một tội trọng nào đó, tôi chỉ là một người phụ nữ bị giày xéo dưới sự thống trị của Sa-tan, phải tranh chiến với những nỗi đau của riêng mình.

 

Tôi là một người phụ nữ được giải cứu khỏi quỉ ám. Chúa Giê-xu đã biến đổi đời sống tôi bằng cách tha thứ cho tôi, chữa lành tôi và cứu chuộc tôi.

 

Chúa Giê-xu đã giải cứu tôi thoát khỏi bảy quỉ dữ. Tôi đã từng sống trong những hoàn cảnh và những mối quan hệ khiến cho tôi không thể nào thực hiện những mơ ước của mình. Có lẽ các chị em cũng có thể liên quan đến những con quỉ săn đuổi tôi: trầm cảm, sợ hãi, thiếu lòng tự trọng, nghi ngờ, trì hoãn làm lãng phí thời gian, cay đắng, và tự thương hại mình. Đó là bảy con quỉ dữ.

 

Khi tôi gặp Chúa Giê-xu, tôi kinh nghiệm được sự giải cứu ra khỏi những gì đã ràng buộc bản thân tôi. Vì vậy, tôi đi theo Ngài. Tôi không phải là người duy nhất đi theo Chúa, Gian-nơ và Su-xan-nơ và những người phụ nữ khác cũng vậy, tất cả chúng tôi đều đi theo Ngài. Chúng tôi làm phiền mười hai vị sứ đồ biết bao! Dù sao, tôi đã theo Ngài đến thập tự giá và sau đó đến ngôi mộ. Tôi nghĩ ít ra tôi cũng có thể bày tỏ lòng tôn kính Ngài trong sự chết của Ngài.

 

Bây giờ, tại ngôi mộ trống, tôi đã trải qua một nỗi đau khác. Chúa tôi, Giê-xu người Na-xa-rét, đã bỏ tôi ra đi trong sự chết, bây giờ tên trộm nào đó đã đánh cắp mất xác của Ngài. Tôi nghĩ tôi phải nói với một người nào đó biết việc này; vì vậy, tôi đã chạy đến gặp Si-môn Phi-e-rơ và người môn đồ yêu dấu của Ngài báo tin. Vừa nghe xong người môn đồ yêu dấu đó chạy và đến ngôi mộ trước. Trong khi người môn đồ yêu dấu đó dừng lại nhìn vào bên trong, thì Si-môn Phi-e-rơ hấp tấp lao vào trong mộ. Ông không thấy Chúa Giê-xu, nhưng ông thấy chứng cớ Chúa Giê-xu đã bỏ lại phía sau: những tấm vải liệm quấn xác Ngài được cuộn lại và để riêng ra một chỗ. Không có kẻ trộm nào đã có thể lấy cắp xác của Chúa đi mà có thể để lại những tấm vải liệm gọn gàng như thế. Ông không nhìn thấy Chúa Giê-xu, nhưng người môn đồ yêu dấu đã nhìn thấy ngôi mộ trống và tin, ông tin rằng Đức Chúa Trời đã làm một điều gì đó; dù vậy, ông vẫn không hiểu hết được.

 

Và rồi, những gì tôi chỉ có thể mô tả mà thậm chí chưa giải thích được thì những người đó đã trở về nhà. Thành thật mà nói, tôi vẫn không hiểu được điều đó! Hai người trưởng thành, là những nhân chứng hợp pháp ở Palestine trong thế kỷ thứ nhất. Hai nhân chứng đáng tin cậy, lời chứng của họ có thể có giá trị trong phòng xử án khi cần thiết, lại quay gót về nhà.

 

Tôi không thể bỏ đi được. Tôi đứng khóc bên ngoài ngôi mộ, sau đó tôi cúi xuống nhìn vào bên trong mộ. Tôi nhìn thấy các thiên sứ và họ cũng nhìn thấy tôi. Tất nhiên, lúc đó tôi không nhận ra họ là ai hoặc họ đại diện cho ai. Họ hỏi tôi câu hỏi vô lý nhất: “Hỡi đàn bà kia, sao ngươi khóc?​​” Tôi ước gì sứ đồ Giăng sẽ viết ra những điều mà tôi thật sự đã nói với họ, với sự hòa lẫn của nước mắt và sự tức giận gia tăng, “Tại sao tôi khóc à? Vì người ta đã dời Chúa tôi đi, không biết để Ngài ở đâu?”

 

Tôi đã bỏ mặc các thiên sứ và quay lại thì thấy một người, dường như là người làm vườn. Người làm vườn đó hỏi tôi cùng một câu hỏi mà các thiên sứ đã hỏi, “Hỡi người đàn bà kia, sao ngươi khóc?” Và câu hỏi kế tiếp, “ngươi tìm ai?” Tôi trả lời với người làm vườn bằng một cảm giác cam chịu, “Ví thật ngươi là kẻ đã đem Ngài đi, xin nói cho ta biết ngươi để Ngài đâu, thì ta sẽ đến mà lấy. Tại sao tôi khóc? Làm sao tôi có thể bắt đầu kể cho ông biết những gì đang lấp đầy lòng tôi và những gì đã làm đau đớn linh hồn tôi? Và tôi đang tìm kiếm ai? Vào lúc này, tôi cũng không biết. Tất cả những gì tôi biết là xác của Chúa tôi đã biến mất… Tại sao tôi khóc? Giá mà ông có thể biết được nỗi buồn tràn ngập trong lòng tôi.”

 

Và rồi điều đó đã xảy ra. Người ấy lấy tên riêng của tôi, gọi tôi: “Hỡi Ma-ri!” Tôi không thấy Chúa Giê-xu bước ra từ phần mộ. Tôi nghe tên của tôi từ một âm giọng rất quen thuộc, tôi sực tỉnh ngay và tôi xoay lại để bước ra khỏi “phần mộ” vô tín của tôi. Tôi thưa rằng: “Ra-bu-ni!” (nghĩa là thầy). Quả thật, giọng nói quen thuộc vang lên bên tai tôi khi tôi nghe tên của tôi từ phía bên kia cõi chết. Chúa Giê-xu đã sống lại và vì vậy tôi cũng sống! Tôi không nói được thành lời.

 

Cuối cùng, Ngài đã nói một lần nữa, “Chớ rờ đến ta.”. Tôi nghĩ rằng tôi biết những gì Ngài muốn nói, không ai trong chúng ta có thể rờ đến Ngài ngay bây giờ. Đó là lúc tôi thực sự bắt đầu hiểu tin tức tốt lành của sự phục sinh. Ngài phán: “vì ta chưa lên cùng Cha! Nhưng hãy đi đến cùng anh em ta, nói rằng ta lên cùng Cha ta và cha các ngươi, cùng Đức Chúa Trời ta và Đức Chúa Trời các ngươi.”

 

Sự phục sinh của Chúa phải được truyền ra khắp thế gian. Chúa Giê-xu đã phục sinh và sống đời đời sau khi Thân Thể của Ngài được sống lại. Tôi là một phần của thân thể đó! Và các chị em cũng vậy! Tất cả chị em là con cái Chúa trên khắp hành tinh này đều có phần trong Thân Thể của Chúa, chúng ta được sống lại đời sống mới, mỗi ngày trong suốt cuộc đời.

 

Sau đó, Chúa Giê-xu bảo tôi trở về nhà để nói về những gì mà tôi đã chứng kiến. Tôi là người đầu tiên kể câu chuyện về sự phục sinh vì “Tôi đã gặp Chúa!” Và tôi nói với những người khác sự thật về những gì đã xảy ra với tôi.

 

Nguyện xin Chúa giúp tất cả chúng ta công bố lẽ thật về Chúa Phục Sinh ngay bây giờ và mãi mãi….

 

 

HOA XƯƠNG RỒNG

Phục sinh 2013

 

Bài trướcTruyền Giảng Tại HT Tô Hiến Thành và HN Tây Thạnh
Bài tiếp theoGóp Ý Bản Dự Thảo Hiến Chương Thống Nhất Của HTTLVN Tại Tỉnh Bến Tre.