BÀI 169: SÁCH TIÊN TRI A-GHÊ – ĐỨC CHÚA TRỜI TRÊN HẾT

279

A-ghê và hai vị tiên tri tiếp theo là Xa-cha-ri và Ma-la-chi hành chức trong bối cảnh hoàn toàn mới. Chúng ta cần nắm rõ các yếu tố lịch sử trong khi học về các vị tiên tri nầy. Ba vị tiên tri A-ghê, Xa-cha-ri và Ma-la-chi được gọi là tiên tri của thời kỳ hậu lưu đày vì họ hành chức sau khi dân Do Thái từ xứ lưu đày trở về Giê-ru-sa-lem. Biến cố lưu đày của tuyển dân Đức Chúa Trời tại Ba-by-lôn là một cái mốc rất quan trọng giúp chúng ta hiểu được những sách tiên tri Cựu Ước. Các vị tiên tri được phân chia làm ba thành phần thứ nhất là trước khi bị lưu đày, trong khi bị lưu đày và sau khi bị lưu đày. Một số vị tiên tri đã bị lưu đày, cùng chung số phận với đồng bào của mình như Ê-xê-chi-ên hay Đa-ni-ên chẳng hạn. Nhưng ba vị tiên tri sau cùng thuộc vào thời kỳ hậu lưu đày vì họ sống và rao giảng sau khi dân sự hồi hương từ xứ Ba-by-lôn.

Khi học về những sách lịch sử trong Kinh Thánh, chúng ta biết rằng việc dân Do Thái bị lưu đày sang Ba-by-lôn không diễn ra chỉ một lần. Giê-ru-sa-lem bị đánh chiếm đến 3 lần, cứ mỗi lần như vậy thì người dân bị bắt và đày sang Ba-by-lôn. Việc dân Do Thái hồi hương từ xứ Ba-by-lôn cũng giống như vậy. Những sách lịch sử của E-xơ-ra và Nê-hê-mi cho biết không phải chỉ có một lần hồi hương của người Do Thái từ Ba-by-lôn nhưng có 3 lần hồi hương khác nhau. Đợt hồi hương thứ nhất được tiến hành dưới sự lãnh đạo của quan trấn thủ Xô-rô-ba-bên và thầy tế lễ cả Giê-hô-sua. Mục đích của lần hồi hương thứ nhất là xây dựng lại đền thờ của Đức Chúa Trời. Khi người Mê-đi và Ba Tư chinh phục đế quốc Ba-by-lôn thì một phép lạ đã xảy ra đối với người Do Thái. Si-ru đại đế ngay sau khi chiếm được Ba-by-lôn thì ông liền ra một sắc lịnh cho phép bất cứ người Do Thái nào đang bị lưu đày tại Ba-by-lôn được trở về Giê-ru-sa-lem để tái xây dựng đền thờ của họ. Si-ru đại đế còn đi xa hơn khi vua ban cho họ tiền bạc để thực hiện việc hồi hương và tái thiết đền thờ.

Sách E-xơ-ra và Nê-hê-mi cho biết không phải mọi người Do Thái đều muốn trở về nhưng chỉ một số ít là khoảng 50 ngàn người khăn gói lên đường về lại Giê-ru-sa-lem. Quan trấn thủ Xô-rô-ba-bên và thầy tế lễ cả Giê-hô-sua lãnh đạo lần hồi hương thứ nhất, mục đích chính của lần nầy là xây dựng lại đền thờ Sa-lô-môn, vì nó là trung tâm sinh hoạt thuộc linh của người Giu-đa.

Bảy mươi năm sau, E-xơ-ra lãnh đạo đợt hồi hương thứ nhì. Mục đích của lần nầy là đem Lời Chúa đến với dân sự sau khi đền thờ đã được tái thiết xong.

Mười ba năm sau khi E-xơ-ra lãnh đạo đợt hồi hương thứ nhì thì Nê-hê-mi lãnh đạo đợt hồi hương thứ ba. Mục đích của lần nầy là xây dựng bức tường bảo vệ quanh đền thờ vừa được tái thiết và thành phố Giê-ru-sa-lem. Do đó có cả thảy ba lần hồi hương khác nhau. Những bài giảng của A-ghê, Xa-cha-ri liên quan đến lần hồi hương thứ nhất dưới thời của quan trấn thủ Xô-rô-ba-bên và thầy tế lễ cả Giê-hô-sua. Cả hai vị tiên tri đều có sứ điệp liên quan đến việc xây dựng lại đền thờ.

 Đoàn người đầu tiên trở về để xây dựng lại đền thờ chỉ là những người tị nạn tả tơi từ đất nước lưu đày cất bước trở về cố hương. Trước khi quốc gia của họ bị người Ba-by-lôn xâm lăng, họ có một lực lượng quân sự hùng hậu đến 600.000 binh sĩ, dân số khoảng hai triệu người. Nhưng bây giờ chỉ có 50.000 người rách rưới, chẳng có gì. Họ trông giống như những người tị nạn tại một số các nước Phi châu hay tại Afghanistan chẳng hạn. Họ không có quân đội, họ không có cơ cấu của một quốc gia, họ không có sức mạnh chính trị hay quân sự, còn một nan đề khác là có những người ngoại bang đang sống ngay trên lãnh thổ của họ tức Giê-ru-sa-lem và xứ Giu-đê. Đây là những người bị đày từ những nơi khác đến, điều nầy giống như người Do Thái bị lưu đày sang đất ngoại bang. Các đế quốc thời bấy giờ thường áp dụng chính sách nầy để dễ bề cai trị.

Những người dân ngoại sống tại đất người Do Thái sau nầy trở thành người Sa-ma-ri. Đây là nhóm người bị người Do Thái khinh thường vì dân Sa-ma-ri được gọi là dân tạp chủng. Những người dân ngoại cưới gả với người Do Thái bản xứ rồi sinh sôi phát triển thành dân tạp. Việc cưới gả nầy là điều bị luật pháp Môi-se cấm ngặt. Những người dân ngoại nầy không muốn người Do Thái hồi hương được may mắn. Họ hiểu rằng chính niềm tin của người Do Thái đã khiến dân tộc nầy trở nên lực lượng quân sự hùng mạnh, do đó nếu người Do Thái thành công trong việc xây lại đền thờ và tái lập sinh hoạt tôn giáo của họ thì người Do Thái trở thành mối đe dọa cho dân ngoại bang Sa-ma-ri.

Dân Sa-ma-ri cay đắng chống lại việc tái thiết đền thờ. Khi công cuộc xây dựng bắt đầu thì họ quấy nhiễu và bắt bớ người Do Thái. Dân ngoại tiếp tục chống lại công việc xây đền thờ do đó người Do Thái hồi hương nản lòng và bỏ cuộc mặc dầu từ ban đầu mục đích của họ khi hồi hương là xây dựng lại đền thờ. Họ chuyển hướng để lo xây dựng cho nhà riêng của mình. Suốt 15 năm đền thờ vẫn là một đống đổ nát.

Chính trong tình hình đó mà Đức Chúa Trời đã dấy lên tiên tri A-ghê và Xa-cha-ri để đối phó với những khó khăn đang xảy ra. Khi công việc Chúa bị đình trệ thì nhiệm vụ của một tiên tri đó là lên tiếng cho đến khi trở lực được giải quyết và công việc Đức Chúa Trời được tiến hành trở lại. Công việc Chúa trong thời của A-ghê là tái thiết đền thờ. Thế nhưng dân sự bấy giờ dồn nỗ lực để xây dựng nhà riêng của họ. Công tác và sứ điệp của hai vị tiên tri A-ghê và Xa-cha-ri là phải lên tiếng về những trở lực chặn đứng công việc Chúa cho đến khi việc tái thiết đền thờ được diễn tiến theo như chương trình của Đức Chúa Trời.

Sách A-ghê chỉ gồm hai chương, và trong vỏn vẹn hai chương nầy A-ghê trình bày đến 4 bài giảng. Phần Kinh Thánh mà chúng ta đã lắng nghe trong phần mở đầu là bài giảng đầu tiên của ông. Sứ điệp trong bài giảng thứ nhất rất đơn giản, nó có nghĩa là “Đức Chúa Trời trên hết.” Một số người nói rằng sứ điệp của toàn bộ Kinh Thánh được cô đọng lại bởi năm chữ “Đức Chúa Trời trên hết.” Sứ điệp nầy có thể được thể hiện qua những điều răn, những câu chuyện, nó có thể được trình bày bởi những cách khác nhau như: minh họa, ví dụ, thánh vịnh… nhưng dẫu thế nào đi chăng nữa thì nội dung cô đọng của nó là “Đức Chúa Trời trên hết.” Đức Chúa Trời phải chiếm hàng đầu trong các thứ tự ưu tiên của chúng ta. A-ghê muốn nói với đồng bào của ông rằng, “Anh em đã đặt sai thứ tự ưu tiên, anh em phải điều chỉnh lại.”

Mọi người đều có thứ tự ưu tiên mà mình đang nhắm đến. Các thứ tự ưu tiên này được ví sánh như mục tiêu gồm có nhiều vòng, từ vòng trung tâm cho đến vòng số 1, số 2 cho đến số 10. Những gì được xem là ưu tiên trong đời sống chúng ta? Điều gì là trung tâm hay ưu tiên hàng đầu của chúng ta? Kinh Thánh dạy rất nhiều về điều nầy. Chẳng hạn trong bài giảng trên núi ở Mat 6, Chúa Giê-xu đã giảng về thứ tự ưu tiên. Chúa cho biết điều quan trọng nhất là “Tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài rồi Ngài sẽ thêm cho các ngươi mọi điều khác nữa.” Nói cách khác, Chúa Giê-xu khẳng định rằng trung tâm của đời sống chúng ta, hay ưu tiên hàng đầu của chúng ta phải là Đức Chúa Trời và nước của Ngài. Điều nầy có nghĩa là Chúa có thẩm quyền cai trị trên đời sống chúng ta, chúng ta sống thuận phục theo sự chỉ dẫn của Ngài. Mọi ưu tiên khác đều được thẩm định dựa theo mối liên hệ đó. Điều gì chiếm quan trọng hàng đầu trong đời sống quí vị? Điều gì là những ưu tiên tiếp theo?

Đây là trọng tâm bài giảng đầu tiên của A-ghê. A-ghê đã trình bày rất hay, ông phát biểu như sau, “Hãy xem xét lại đường lối của anh em, suy nghĩ về những gì mình đang làm, anh em đặt các sự việc đó theo thứ tự ưu tiên như thế nào?” Ông nói tiếp, “Anh em cho rằng bây giờ không phải là lúc để xây dựng nhà của Đức Chúa Trời. Nhưng đó là thời gian theo cái nhìn của anh em chớ không theo cái nhìn của Đức Chúa Trời.” Một trong những lý do từ chối đối với công việc Chúa thường xuyên được nêu ra là bây giờ chưa phải là thời điểm.

Bàn đến yếu tố thời gian là một điều khá lý thú. Khi một người muốn từ chối công việc nào đó thì họ thường nói “Tôi không có thì giờ.” Khi một Mục sư có ý mời một tín hữu tham gia một công việc Chúa hay đứng vào ban chấp hành hội thánh thì câu trả lời thường là, “Thưa Mục sư, tôi không có thì giờ.” Câu nầy dường như ngụ ý rằng tôi không có thì giờ giống như những người khác. Thật ra thì mọi người đều có 24 giờ mỗi ngày hoàn toàn giống nhau. Chúng ta có thể khác nhau về nhiều điểm nhưng về số lượng thời gian thì mọi người đều giống nhau. Điều mà người tín hữu thật sự muốn nói với Mục sư là, “Tôi không xem việc đó là quan trọng để đầu tư thì giờ.” Đây mới là suy nghĩ thật nằm đằng sau câu nói, “Tôi không có thì giờ.” Nếu thành thật hơn và chính xác hơn thì người tín hữu đó sẽ nói rằng, “Vì tôi có những việc khác quan trọng hơn, tôi có những thứ tự ưu tiên khác nên tôi không thể bỏ thì giờ cho công việc Mục sư gợi ý, nó không quan trọng đến độ tôi phải hi sinh thì giờ của mình.”

Đến đây A-ghê dừng lại và đề cập đến đời sống cá nhân của họ. Ông nói, “Anh em không có thì giờ để xây dựng nhà của Đức Chúa Trời? Thế mà anh em có thì giờ để xây dựng nhà riêng của anh em. Anh em luôn có thì giờ cho những gì anh em muốn nhưng không bao giờ có thì giờ cho những gì Đức Chúa Trời muốn.” Sứ điệp của A-ghê trong bài giảng đầu tiên là sứ điệp được tìm thấy xuyên suốt Kinh Thánh. Sứ điệp nầy có thể được cô đọng trong câu sau: “Đức Chúa Trời trên hết.”

Lần đến chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu bài giảng thứ nhất của A-ghê. Sứ điệp trong bài giảng nầy được Đức Chúa Trời nhấn mạnh từ Sáng Thế Ký cho đến Khải Huyền. Đây là lẽ thật mà Đức Chúa Trời muốn tất cả chúng ta thấu triệt bằng không thì Ngài đã không cần phải nhấn mạnh nhiều đến như vậy. Nếu quí thính giả chưa một lần nào mời Chúa chiếm vị trí quan trọng nhất trong đời sống mình thì xin hãy làm điều đó hôm nay. Đức Chúa Trời quyền năng là Chúa của cả trời và đất không những xứng đáng chiếm vị trí cao nhất trong đời sống chúng ta mà Ngài còn muốn chúng ta dùng đức tin để mời Ngài ngự vào đời sống mình. Xin đến với Chúa và thưa với Ngài rằng, “Kính lạy Chúa, con mời Chúa bước vào ngai lòng của con. Con vốn ích kỷ và chỉ muốn đặt con trước hết, nhưng giờ đây xin giúp con trưởng thành, tôn Chúa và xem nước của Ngài là trên hết trong đời sống con.

Nguồn: Đài Xuyên Thế Giới

Bài trướcCầu Nguyện, Trọng Tâm Của Truyền Giáo – 1/12/2025
Bài tiếp theoCHÚA VÀO ĐỜI: LỜI XÁC QUYẾT CỨU RỖI TUYỆT ĐỐI (I Ti-mô-thê 1:15)