292

CHÚA VÀO ĐỜI

Mục sư Nicky Gumbel ở Anh đã nhận định một cách tinh tế về lễ Giáng sinh trong xã hội hiện đại như sau: “Ngày nay lễ Giáng sinh đã làm lu mờ hình ảnh của Chúa Cứu Thế”. Thật vậy, ngày nay người ta kỷ niệm Giáng sinh, vui Giáng sinh, ăn tiệc Giáng sinh như lễ hội văn hóa quốc tế nhưng cố tình loại bỏ “Chúa” giáng sinh. Có lẽ dù đã hai mươi thế kỷ qua, người ta vẫn chưa hiểu được ý nghĩa đích thực của lễ Giáng sinh, nhất là Đấng Giáng sinh là ai? Ngài có liên quan gì đến mỗi người trong thế giới này.

Vì thế, hôm nay lễ Giáng sinh lại trở về với chúng ta, hãy cùng nhau suy ngẫm về ý nghĩa giáng sinh qua đề tài “Chúa vào đời” qua Lời Chúa trong I Giăng 4:9 “Lòng Đức Chúa Trời yêu chúng ta đã bày tỏ ra trong điều nầy: Đức Chúa Trời đã sai Con một Ngài đến thế gian, đặng chúng ta nhờ Con được sống.”

Chúa vào đời là một sự kiện nhiệm mầu, nắm giữ vai trò thiết yếu trong chương trình cứu chuộc mà Thiên Chúa đem đến cho nhân loại.

Chúng ta ca ngợi Chúa vào đời vì đó là một sự nhập thể mầu nhiệm bày tỏ Tình Yêu tuyệt vời của Thiên Chúa đối với con người. Hơn nữa, Chúa vào đời là Tin mừng cho cả nhân loại vì hôm nay Đấng Cứu Thế đã vào đời.

MẦU NHIỆM NHẬP THỂ

Chúa Giê-xu nhập thể là một sự kiện nhiệm mầu vì Ngài không phải được sinh ra theo công lệ thiên nhiên. Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa Hằng Sống, mang nguyên thể và ngôi vị thần thượng, nhưng Ngài đã tự nguyện nhập thể, khoác lấy hình hài con người, sống giữa nhân loại với mục đích cứu chuộc. Trong Phúc âm, thánh Giăng đã dùng danh từ Logos (lời nói) để chỉ Ngôi Hai Thiên Chúa, khi viết: “Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con một [†]Theo tiếng bổn thì chữ “Con một”có ý là Con sanh ra chỉ có một mà thôi  đến từ nơi Cha” (Giăng 1:14).

Phúc âm dạy rằng từ lúc thái sơ đã có Chúa Giê-xu và Ngài là Thiên Chúa đã sáng tạo trời đất và muôn loài, vạn vật. Thiên Chúa đã tạo dựng con người và Ngài muốn con người được sống hạnh phúc đời đời trong Tình Yêu tuyệt vời của Ngài. Nhưng tiếc thay tổ phụ của loài người là A-đam và Ê-va đã phạm tội, không vâng lời Thiên Chúa và hậu quả là bị đuổi khỏi lạc viên Ê-đen. Từ đó con người phải mang lấy thân phận bi đát “sinh, lão, bệnh, tử” và bị phân cách khỏi vinh quang của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài yêu thương con người là loài linh thiêng hơn muôn loài vạn vật (linh ư vạn vật) mà Ngài đã tạo ra, nên Ngài đã sai Ngôi Hai xuống thế làm người. Thiên Chúa đã đến với nhân loại theo một đường lối quyết liệt khác thường: Ngôi Hai Thiên Chúa được sinh ra trong máng cỏ hèn hạ và chịu cảnh giá rét. Sự giáng sinh của Ngài không phải là ngẫu nhiên mà đã được chuẩn bị trước: Ngay từ buổi sáng thế khi xảy ra bi kịch trong vườn Ê-đen thì Thiên Chúa đã tiên báo điều này: “Ta sẽ làm cho mầy cùng người nữ, dòng dõi mầy cùng dòng dõi người nữ nghịch thù nhau. Người sẽ giày đạp đầu mầy, còn mầy sẽ cắn gót chân người.” (Sáng 3:15) và trước khi Chúa giáng sinh 700 năm, Chúa dùng tiên tri Ê-sai tiên báo về sự giáng sinh của Chúa được thánh Ma-thi-ơ trích dẫn “Nầy, một gái đồng trinh sẽ chịu thai, và sanh một con trai, Rồi người ta sẽ đặt tên con trai đó là Em-ma-nu-ên; nghĩa là: Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta” (Mat 1:23)

EsIs 7:14

Từ xưa đến nay, không một vị giáo chủ, hiền triết nào trên trần gian nầy được tiên tri một cách rõ ràng hàng nghìn năm trước về sự sinh ra của mình ngoài trừ Chúa Giê-xu Cơ Đốc. Thật là lạ lùng: Ngài là Đấng từ trời xuống chứ không phải từ người mà ra, Ngài “xuống đời” chứ không phải “ra đời”. Bởi thế, ngày sinh của Chúa được gọi là giáng sinh, là sự nhập thể nhiệm mầu.

Ngoài ý nghĩa mầu nhiệm nhập thể, sự giáng sinh của Chúa Giê-xu còn là một mặc khải toàn diện nữa. Con người không thể thấy và biết được Thiên Chúa trừ khi chính Ngài mặc khải cho con người. Các bậc hiền triết Đông Tây cũng đã mò mẫm để tìm biết Thượng Đế nhưng cũng đành chịu không làm sao biết Ngài rõ ràng được. Trước sự biến dịch diệu kỳ và vô cùng của vũ trụ muôn vật, Lão Tử chỉ mơ hồ gọi cái nguyên lý tạo tác và chi phối vạn vật là Đạo: “Đạo nhiệm mầu ở đâu mà đến không biết được. Đạo không thể dùng lời mà nói được. Ta không biết tên là gì, nếu dùng chữ mà viết thì miễn cưỡng viết là Đạo; ta cũng không biết Đạo là con ai” (Đạo Đức Kinh, tr.131). Dù chưa được ơn mặc khải và chỉ “bập bẹ” theo trực giác mà nói ra, Lão Tử cũng đã cố gắng diễn tả được một phần nào về Thiên Chúa qua hình của Đạo đó. Thực ra ngôn ngữ trí óc của con người làm sao có thể diễn tả và hiểu biết được một thực tại siêu hình là Thiên Chúa nếu không nhờ ơn mặc khải. Triết gia Cơ Đốc G. Marcel cũng nhận thấy điều đó khi ông viết: “Khi ta nói đến Chúa thì không phải là nói về Ngài nữa.” (Journal Metaphysique).

Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn muốn bày tỏ Ngài cho con người. Qua hai mặc khải rõ ràng nhất là mặc khải thiên nhiên (trời đất, muôn vật) và mặc khải siêu nhiên (Kinh Thánh), con người có thể biết được một Thiên Chúa Tình Thương, quyền phép vô cùng và cũng biết được ý định của Ngài nữa.

Nhưng đó chỉ là một phần trong mặc khải của Thiên Chúa. Phải đợi đến khi Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần làm người mới là một mặc khải toàn diện để con người nhận biết Thiên Chúa. Chính Chúa Giê-xu đã phán: “Ta với Cha (Thiên Chúa) là một. Ai thấy Ta tức đã thấy Cha ta (Thiên Chúa). (Giăng 10:30). Vì thế, Đạo của Chúa Giê-xu còn được gọi là Đạo Mặc khải.

TIN MỪNG CHO NHÂN LOẠI

Sự nhập thể của Chúa Giê-xu là một mặc khải toàn diện để con người nhận ra hình ảnh Thiên Chúa. Nhưng sự giáng sinh của Ngài cũng là Tin Mừng cho nhân loại nữa. Gọi là Tin Mừng hay Phúc Âm hay Tin Lành vì Chúa đến trần gian đem sự cứu rỗi cho con người, tái lập mối tương quan tình nghĩa giữa Trời và người, và đồng thời kiến tạo một nhân-loại-mới trong đó con người sống hòa thuận với nhau. Ngài được mệnh danh là Đấng Cứu Thế vì dưới trời này không ai có thể cứu người ra khỏi sự chết như Kinh Thánh khẳng định “Chẳng có sự cứu rỗi trong đấng nào khác; vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu.” (Công Vụ 4:12) Con người sinh ra rồi đau khổ, bệnh tật và cuối cùng kết thúc bằng một cái chết. Sự chết là một thực tại kinh khiếp đe dọa và thách thức lý trí con người. Từ xưa biết bao nhiêu bậc hiền triết Đông Tây đã cố gắng tìm con đường giải thoát bằng những triết thuyết cao xa, nhưng rồi tất cả những nỗ lực của con người đều thất bại. Con người vẫn cảm thấy tuyệt vọng và cô đơn trước nỗi chết không ngừng. Con người không thể nào hiểu được căn nguyên của sự chết, nếu không nhờ Chúa mặc khải qua Kinh Thánh. Nhưng tội lỗi không làm ngưng tắt Tình Yêu của Ngài đối với con người. Ngôi Hai Thiên Chúa đã đích thân mang lấy thân xác loài người, làm người thật sự và cuối cùng tự nguyện hiến thân chết thay, dùng huyết Ngài bôi xóa tội lỗi cho nhân loại để con người được trắng án và được sống. Thật vậy, con người không thể tự cứu mình và cũng không ai ở trần gian nầy có thể cứu con người ra khỏi sự chết, trừ ra một Đấng Sống, từ trời xuống, là Chúa Cơ Đốc. Nếu không phải là Đấng Cứu Thế thì làm sao Ngài dám tuyên bố câu nói lạ lùng nầy: “Ta là đường đi, chân lý và sự sống; chẳng bởi ta thì không ai được đến cùng Cha” (Giăng 14:6). Thật vậy, Ngài không là bảng chỉ đường mà chính là con đường. Ngài không phải là kẻ đi tìm chân lý mà chính Ngài là Chân lý duy nhất. Và không phải Ngài là sự sống tạm bợ như con người, nhưng chính Ngài là sự sống vĩnh cửu.

Bởi thế, trong đêm Chúa giáng sinh tại thành Bết-lê-hem, thiên sứ đến báo tin cho các mục đồng rằng: “Đừng sợ chi, vì này ta báo cho các ngươi một Tin Lành, sẽ là niềm vui lớn cho muôn dân: Ấy là hôm nay tại thành Đa-vít đã sinh cho các ngươi một ĐẤNG CỨU THẾ, là Christ (Cơ Đốc) là Chúa.” (Lu-ca 2:10)

Chúa Giê-xu giáng sinh còn là nhịp cầu để con người thông công với Thiên Chúa. Ngài là Đấng Yêu Thương nhưng cũng vô cùng Thánh Khiết, nên khi con người phạm tội, đành phải bị phân cách vĩnh viễn khỏi Ngài. Đó là sự phân cách mà Thiên Chúa Thương Yêu không bao giờ muốn mà có lẽ con người cũng không bao giờ ngờ. Vì thế, dù đã phạm tội và xa dần Chúa nhưng sâu thẳm trong tâm hồn con người vẫn còn một niềm tiếc nhớ Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa Toàn Năng, tiếc nhớ cảnh Thiên đàng đã mất, là một niềm tiếc nhớ dai dẳng không nguôi. Thiên Chúa biết rõ nỗi lòng của con người và Ngài đã tìm cách đến với con người. Chúa Giê-xu xuống thế để chịu chết trên Đồi Sọ vì tội của con người. Sự chết của Ngài nắm giữ vai trò tẩy uế, và công chính hóa cho nhân loại. Nếu tội lỗi đã phá vỡ mối tương giao giữa con người và Thiên Chúa thì sự giáng sinh và sự chết của Chúa Giê-xu trên thập tự đã lập lại mối “quan hệ bình thường, mối giao hảo giữa Trời và Người.”

Đấng Cứu Thế đến thế gian chẳng những tạo sự hòa giải giữa Trời và Người mà còn đem sự hòa bình đến cho xã hội con người. Lời Chúa dạy: “Ta ban cho các con một điều răn mới, ấy là các con hãy yêu nhau như Ta đã yêu các con” (Giăng 13:34). Ngài là Tình Yêu nên kẻ theo Ngài phải biết yêu: yêu tha nhân, yêu đồng loại và yêu cả kẻ thù của mình. “Hãy yêu kẻ thù nghịch con và cầu nguyện cho kẻ bắt bớ con” (Mat 5:44). Lời Ngài dạy thật là ngọt ngào nhưng cũng thật khó nuốt cho những ai chưa nhận được quyền năng Ngài thánh hóa.

Hòa bình là khát vọng của con người, nhưng con người sẽ không bao giờ hưởng được sự hòa bình thật sự vì thiếu tình thương. Hòa bình phải được xây dựng trên nền tảng Tình yêu thương chân thật. Thiếu nền tảng đó, hòa bình nếu có được, cũng chỉ là tạm bợ rồi sụp đổ. Chỉ khi nào con người thật sự yêu nhau bằng Tình Yêu Vô Điều Kiện của Thiên Chúa thì hòa bình mới thực sự đến với con người.

Đêm Chúa vào đời còn là đêm giao thừa của nhân loại, chấm dứt một lịch sử đau thương và khởi đầu một kỷ nguyên mới “Kỷ nguyên Tình Yêu”. Ngài đến để chia đôi dòng lịch sử và đưa con người vào Giao ước mới của Ân Sủng Thiên Chúa. Ngài đến cũng để kiến tạo một nhân loại mới trong đó con người không còn đau khổ, chết chóc, không thù hận, oán hờn vì Thiên Chúa là Cha, và mọi người đều là anh em trong dòng huyết báu của Chúa Giê-xu Cơ Đốc.

KẾT LUẬN

Chúa Vào Đời là sự nhập thể nhiệm mầu bày tỏ Tình Yêu quyết liệt của Thiên Chúa đối với con người. Ngài là mặc khải toàn diện để con người nhận ra hình ảnh và bản tính của Thiên Chúa. Chúa vào đời là cũng Tin Mừng cho nhân loại vì hôm nay Đấng Cứu Thế đã đến để đem sự cứu rỗi cho nhân loại, cứu con người thoát khỏi hậu quả của tội lỗi và ban cho con người niềm hy vọng sống như Kinh Thánh chép “Đức Chúa Jêsus Christ đã đến trong thế gian để cứu vớt kẻ có tội, ấy là lời chắc chắn, đáng đem lòng tin trọn vẹn mà nhận lấy…” (1 Tim 1:15).

Tuy nhiên, sự giáng sinh mới là khởi điểm mà sự chết và sự sống lại của Ngài mới là trung tâm điểm của chương trình cứu chuộc mà Thiên Chúa ban cho nhân loại. Nếu Ngài giáng sinh làm người chỉ để truyền dạy một triết thuyết cao thâm rồi cuối cùng cũng chết như mọi người thì Ngài cũng chỉ là một bậc vĩ nhân đáng cho đời ca tụng thôi chứ không phải là Đấng Cứu Thế. Không! Chúa Giê-xu đã sống lại, lên trời và sẽ trở lại. Đó là niềm hy vọng cho con người. Ngài đã phán: “Ta là sự Sống lại và sự Sống – kẻ nào tin Ta sẽ sống, mặc dù đã chết rồi.” (Giăng 11:25)

Hãy đến với Chúa giáng sinh trong mùa Giáng sinh năm nay và mời Ngài giáng sinh vào lòng bạn hôm nay!

Trịnh Phan
Giáng sinh 1971 (revised 2025)

Bài trướcCầu Nguyện Cho Sự Giảng Đạo – 4/12/2025
Bài tiếp theoBẢN TIN MỤC VỤ SỐ 109: CHÚA VÀO ĐỜI