Bài 166: Sách HA-BA-CÚC – CUỘC ĐỐI THOẠI VỚI ĐỨC CHÚA TRỜI
Trong chương trình vừa qua, chúng ta đã cùng nhau học về Tiên tri Ha-ba-cúc. Vị tiên tri trình bày sứ điệp qua cảnh đối thoại giữa ông với Đức Chúa Trời. Đây là hình thức rất phổ biến trên truyền hình ngày hôm nay. Ha-ba-cúc đóng vai người điều khiển chương trình và vị khách đó là Đức Chúa Trời. Khi ông chờ nơi vọng canh thì Đức Chúa Trời đã trả lời cho ông rằng, “Người công bình sống bởi đức tin.” Câu này đóng vai trò rất quan trọng trong lịch sử của giáo hội Tin Lành, nó được Chúa dùng để thúc đẩy công cuộc cải chánh Giáo hội ra khỏi những sai trật vào thế kỷ thứ 16.
Bên cạnh câu Kinh Thánh vĩ đại nói trên còn có những điểm rất hay trong sách Ha-ba-cúc, nhưng nhiều phần trong Tân Ước chẳng hạn Rô-ma 1:17, Hê-bê-rơ 10:38 và Ga-la-ti 3:11 đều lặp lại ý nầy “Người công bình sẽ sống bởi đức tin.”
Một buổi sáng nọ trong giờ tĩnh nguyện, Martin Luther là người lãnh đạo cải chánh sau nầy đọc Lời Chúa trong Rô-ma 1:17 là câu trích của Ha-ba-cúc, “Người công bình sống bởi đức tin.” Giữa lúc tâm trạng đang bối rối vì những nan đề về thần học và tâm linh thì Chúa đã dùng câu Kinh Thánh nầy để soi sáng Martin Luther. Tất cả mọi hệ phái Tin Lành đều xuất thân từ cuộc cải chánh mà truy cho đến cùng là câu trả lời của Chúa cho Ha-ba-cúc: “Người công bình sống bởi đức tin.” Không phải bởi việc làm, không phải bởi khổ công chuộc tội, không phải bởi một thành quả nào đó nhưng là bởi đức tin. Đây là ý nghĩa của câu Kinh thánh trên đối với Luther. Chúa muốn nói với Ha-ba-cúc rằng, “Ha-ba-cúc, ngươi đặt vấn đề là ta không làm gì cả, nhưng ta muốn ngươi biết rằng ta đang tể trị mọi sự, ta vẫn đang hành động. Người Ba-by-lôn rồi sẽ bị tiêu diệt. Họ sẽ gặt những gì họ gieo, nhưng dân sự của ta phải sống bằng đức tin.”
Việc Ha-ba-cúc đã xây một vọng canh và chờ Chúa trả lời dạy chúng ta bài học quý giá. Thỉnh thoảng quý vị và tôi đối diện với những Ba-by-lôn trong cuộc sống. Khi những khủng hoảng đó xảy ra thì chúng ta làm gì? Theo gương của Ha-ba-cúc thì chúng ta phải xây một vọng canh thuộc linh, đến đó và thưa với Đức Chúa Trời về khủng hoảng của chúng ta, và có thể đặt mọi câu hỏi với Ngài. Sau đó hãy chờ đợi cho đến khi Chúa hành động, lắng nghe tiếng Chúa phán. Chiêm ngưỡng Chúa, thờ phượng Chúa, và lắng nghe tiếng Chúa trả lời. Ha-ba-cúc khuyến khích chúng ta mạnh dạn đến với Chúa và thưa với Ngài những điều chúng ta đang thắc mắc nhưng quan trọng hơn là lắng nghe Chúa phán.
Sau khi nghiên cứu toàn bộ sách Ha-ba-cúc, Tiến sĩ Campbell Morgan là một học giả Kinh Thánh lỗi lạc đã phát biểu: “Một số người cho rằng Đức Chúa Trời không còn phán với con người ngày nay, như Ngài đã làm thuở xưa, nhưng tôi xin thưa với họ rằng, ngày nay con người không lắng nghe như ngày xưa, nếu con người lắng nghe thì Đức Chúa Trời sẽ phán.”
Có bao giờ quý vị để ý đến việc Kinh Thánh nhấn mạnh lắng nghe tiếng Chúa phán? Theo Lời Chúa thì cầu nguyện là một cuộc đối thoại với Đức Chúa Trời. Bất cứ cuộc đối thoại nào cũng cần đến hai chiều. Thứ nhất là chúng ta nói với người khác và thứ hai là người khác nói với chúng ta. Một người nói chuyện hay là người biết lắng nghe.
Sứ điệp dưỡng linh của sách Ha-ba-cúc là “Hãy lắng nghe, hãy lắng nghe Đức Chúa Trời cho đến khi Ngài phán về những gì Ngài đang thực hiện trong đời sống chúng ta.” Có thể chúng ta mang tình trạng sợ hãi và tuyệt vọng khi mới đến với Chúa nhưng rồi sẽ kết thúc trong vui mừng.
Chỉ có ba chương trong sách Ha-ba-cúc. Ha-ba-cúc đã bắt đầu chương 1 với kinh hãi và vô vọng. Ông nêu lên hết câu hỏi nầy đến câu hỏi khác. Rồi Chúa đã trả lời cho ông trong chương hai. Ha-ba-cúc đã kết thúc chương ba với bài Thánh ca. Phần ghi chú kết thúc là ban nhạc được đi kèm với đàn dây. Mặc dầu khi đến với Chúa Ha-ba-cúc ở trong tâm trạng bối rối, lo sợ, nhưng sau khi chờ đợi lắng nghe tiếng Chúa thì ông đã chấm dứt với bài ca thánh.
Chúng ta không biết điều gì đã xảy ra cho Ha-ba-cúc. Có thể ông đã bị giết chết khi Giê-ru-sa-lem bị thất thủ, có thể ông bị mang gông xiềng và đày làm nô lệ, có thể ông đã bỏ mạng tại xứ người. Chúng ta không biết chắc vì lịch sử không đề cập đến, nhưng trọng tâm sách Ha-ba-cúc là bài ca thánh được kết thúc như sau: Ha-ba-cúc 3
17 Vì dầu cây vả sẽ không nứt lộc nữa, Và sẽ không có trái trên những cây nho; Cây ô-li-ve không sanh sản, đồ ăn; Bầy chiên sẽ bị dứt khỏi ràn, Và không có bầy bò trong chuồng nữa.
18 Dầu vậy, tôi sẽ vui mừng trong Đức Giê-hô-va, Tôi sẽ hớn hở trong Đức Chúa Trời của sự cứu rỗi tôi.
19 Đức Giê-hô-va là Chúa, là sức mạnh của tôi, Ngài làm cho chơn tôi giống như chơn con hươu, Khiến tôi đi trên các nơi cao của mình.
Một trong những điểm rất hay nơi các tôi tớ Chúa trong Cựu Ước là lòng trung thành của họ đối với Đức Chúa Trời. Khi bị đe dọa ném vào lò lửa hực vì không chịu cúi đầu thờ lạy pho tượng của vua, thì ba bạn của Đa-ni-ên khẳng khái tuyên bố với Nê-bu-cát-nết-sa rằng, “Đức Chúa Trời của chúng tôi có quyền giải cứu chúng tôi ra khỏi lò lửa nầy, tuy nhiên Ngài có thể không làm điều đó, nhưng dầu thế nào đi chăng nữa thì chúng tôi sẽ không cúi đầu thờ lạy pho tượng của vua.” Họ không biết chắc liệu Chúa có giải cứu họ chăng. Truyện tích và phim ảnh ngày nay thường kết thúc theo cách mà chúng ta gọi là có hậu. Tuy nhiên khi nói về cách anh hùng đức tin trong Hê-bê-rơ chương 11 thì Kinh Thánh cho biết họ đã phải chết vì niềm tin của mình. Chữ chứng nhân theo nguyên nghĩa là tử đạo. Vậy người làm chứng cho Chúa là người sẵn sàng chịu khổ thậm chí chịu chết vì những gì mình tin.
Ha-ba-cúc là một chứng nhân, ông trình bày bài làm chứng của mình qua hình thức đối thoại với Đức Chúa Trời. Ha-ba-cúc đã dùng các câu hỏi để chỉ ra một hướng đi cho đồng bào của ông. Ha-ba-cúc cho biết làm thế nào để biến nỗi tuyệt vọng của họ trở thành bài ca vui mừng. Nếu nghiệm về bài ca của Ha-ba-cúc ở chương 3, chúng ta sẽ nhận thấy rằng Ha-ba-cúc trung thành với Đức Chúa Trời cách vô điều kiện, cho dầu thế nào đi chăng nữa, Ha-ba-cúc vẫn một lòng với Đức Chúa Trời. Đây là một gương sáng về niềm tin tuyệt đối nơi Chúa.
Một bài học khác trong chương ba. Ha-ba-cúc đã đặt vấn đề với Chúa là Ngài đã không làm gì cả, nhưng rồi sau đó ông thấy rằng Đức Chúa Trời sắp vượt qua lằn ranh của yêu thương để giáng cơn đoán phạt đối với người Ba-by-lôn thì ông đã cầu nguyện rằng, “Trong cơn thạnh nộ của Ngài, xin hãy tỏ lòng nhân từ với họ.” Chúa đã cho Ha-ba-cúc thấy một khải tượng về những gì Ngài sẽ làm đối với người Ba-by-lôn thì ông xin Chúa tỏ lòng nhân từ. Qua Thi Thiên 73 chúng ta biết A-sáp có một nan đề là ông ganh ghét với những kẻ ác, ông đi vào đền thờ và thưa với Chúa điều nầy. Chúa cho A-sáp thấy những kinh hoàng mà kẻ ác phải chuốc lấy, chỉ có vài phút thôi, nhưng sau đó thay vì ganh ghét kẻ ác thì ông đã tỏ lòng thương xót họ. Nếu chúng ta thấy những gì xảy ra nơi hỏa ngục, dầu chỉ vài phút thôi, nhưng chắc nó sẽ khiến chúng ta nóng cháy nói về Chúa cho người khác như thế nào.
Một câu khác rất quý báu trong sách Ha-ba-cúc: Ha-ba-cúc 2
20 Nhưng Đức Giê-hô-va ở trong đền thánh của Ngài, trước mặt Ngài, cả đất hãy làm thinh!
Có một giáo sư Kinh Thánh đến dạy Lời Chúa cho một Hội Thánh nhỏ. Ông dùng một biểu đồ để nói về sách tiên tri. Vị giáo sư nầy hơi khác thường, ông dùng chiếc cần câu để chỉ vào những điểm được ghi trên biểu đồ, nếu có một em nào ngồi phía trước mà ồn ào thì ông sẽ dùng cây cần câu gõ nhẹ vào đầu của mấy em và nói,
20 Nhưng Đức Giê-hô-va ở trong đền thánh của Ngài, trước mặt Ngài, cả đất hãy làm thinh!
Thật ra thì đây không phải là những gì Ha-ba-cúc muốn nói đến. Ha-ba-cúc không có ý khuyên rằng, “Chúng ta phải yên lặng vì buổi nhóm đã bắt đầu.” Nhưng điều Ha-ba-cúc muốn nói là, “Chúa ở trong đền thánh của Ngài, nếu các ngươi có nan đề nào, hãy yên lặng, trước mặt Chúa và nhận biết rằng Ngài là Đức Chúa Trời. Hãy thưa với Chúa những gì các ngươi không hiểu và sau đó hãy lắng nghe tiếng Chúa trả lời.
Giống như các tiên tri khác, Ha-ba-cúc kết thúc với một sứ điệp hy vọng. Ông rao giảng về sự khôi phục của dân Do Thái sau thời kỳ lưu đày. Ha-ba-cúc nêu lên lý do căn bản về sự giải cứu hầu đến. Ong nói, “Đức Chúa Trời sẽ đến để cứu dân sự của Ngài và bảo toàn Đấng xức dầu.” Mục đích là Chúa tuyển chọn dân Do Thái là qua đó Đấng Mê-si hay Chúa Jêsus đi vào thế giới chúng ta. Chúa đã giải cứu dân sự của Ngài ra khỏi cảnh lưu đày để Đấng Mê-si có thể nhập thế, giải phóng nhân loại ra khỏi hình phạt và ách thống trị của tội lỗi.
Có lần Chúa Jêsus cùng với các môn đồ của Ngài trên một chiếc thuyền vượt biển Ga-li-lê. Thình lình bão tố nổi lên, Chúa Jêsus vẫn ngủ, nên các môn đồ hốt hoảng chạy đến mà nói rằng, “Ngài không lo là chúng ta đều sẽ chết hết hay sao?” Chúa phán, “Hỡi kẻ ít đức tin, sao các ngươi sợ?” Tại sao Chúa quở họ ít đức tin? Tác giả của một bài Thánh ca nói như sau, “Không một đại dương nào có thể nhận chìm chiếc thuyền mà Đấng tạo nên biển trời đang nằm trong đó.” Nếu Chúa Jêsus là Thượng đế thành người thì làm sao các môn đồ lẫn Chúa có thể bị chết chìm được? Điều nầy cũng đúng với dân sự của Đức Chúa Trời trong Cựu Ước. Con dân Chúa không thể nào bị hoàn toàn tiêu diệt. Họ không thể nào hoàn toàn bị quét sạch khỏi mặt đất. Người A-si-ry đã thôn tính xong nước Y-sơ-ra-ên phía bắc, người Ba-by-lôn sẽ bắt lưu đày dân Giu-đa ở phía nam, nhưng rồi họ sẽ trở về quê hương. Sứ điệp hy vọng dành cho người Giu-đa là họ sẽ trở về, câu chuyện sẽ được kết thúc với một tin vui vì người Giu-đa hay người Do Thái là tuyển dân qua đó Chúa Jêsus đến với thế giới con người. Lập luận căn bản về sự giải cứu dân sự của Chúa ra khỏi cảnh lưu đày đó là, “Đức Chúa Trời đến để giải cứu dân sự của Ngài và bảo tồn Đấng Mê-si.”
Tóm lại sứ điệp dưỡng linh của Ha-ba-cúc tập trung vào vọng canh của nhà tiên tri. Có bao giờ quý vị xây một vọng canh thuộc linh chưa? Khi gặp Na-tha-na-ên, là một người tin kính Chúa thì Chúa Jêsus đã tỏ mình cho ông. Na-tha-na-ên đã hướng lòng về Chúa, tìm kiếm Ngài dưới cây vả. Không ai biết được kinh nghiệm của Na-tha-na-ên dưới cây vả đó là thể nào. Nhưng khi gặp Na-tha-na-ên thì Chúa Jêsus đã phán rằng, “Đây là người Y-sơ-ra-ên thật, trong người không có điều gì gian dối.” Na-tha-na-ên thưa, “Làm sao Ngài biết tôi?” Chúa Jêsus trả lời, “Ta là Đấng mà ngươi đã thưa chuyện dưới cây vả.” Na-tha-na-ên liền đáp, “Chúa là con của Đức Chúa Trời, là vua của Y-sơ-ra-ên.” Quý vị có thể gọi đây là kinh nghiệm tương giao với Đức Chúa Trời dưới gốc cây vả của Na-tha-na-ên. Cây vả chính là vọng canh của Na-tha-na-ên. Quý vị có cây vả giống như Na-tha-na-ên không? Quý vị có dành một nơi nào đó, một thời gian nào đó để đợi chờ và lắng nghe tiếng Chúa không? Nếu quý vị chưa có một nơi giống như vọng canh của Ha-ba-cúc thì xin quý thính giả hãy biệt riêng khoảng thời gian nhất định để gặp gỡ Chúa. Bài học áp dụng của sách Ha-ba-cúc là hãy xây dựng một vọng canh thuộc linh, rồi để ý cho đến khi quý vị thấy những gì Chúa đang làm việc trong đời sống quý vị, hãy lắng nghe tiếng Chúa, chiêm ngưỡng Chúa và thờ lạy Ngài.”
Khi Ha-ba-cúc hỏi Chúa rằng tại sao, thì Ngài trả lời bằng câu mà Ha-ba-cúc chưa từng nghĩ đến trước đó. Chúa phán với ông, “Những kẻ mà lòng không ngay thật sẽ sa ngã” Câu này chỉ về người Ba-by-lôn, Lời Chúa không dừng ở đó, Chúa phán, “nhưng người công bình sống bởi đức tin.” Chúa nêu ra sự khác biệt giữa dân sự của Ngài là người sống bằng đức tin và những người sống bằng lòng kiêu hãnh tự nương dựa vào mình. Chúa khẳng định rằng cho dầu hoàn cảnh thế nào đi chăng nữa thì ta vẫn đang cầm quyền tể trị.
Nguồn: Đài Xuyên Thế Giới































