Sáng nay khác với mọi ngày, trên đường từ nhà thờ về sau buổi nhóm cầu nguyện, khi đi ngang qua chợ tôi thấy có rất nhiều hoa tươi xinh đẹp bày bán hai bên đường, tôi chợt nhớ ra hôm nay là ngày hiến chương nhà giáo Việt Nam… Bỗng nhiên, cảm xúc nhớ thầy trào dâng trong lòng tôi – từng gương mặt khả kính, từng lời dạy, từng ánh mắt nụ cười, từng cử chỉ thân thương rất đáng trân trọng của những người Thầy xưa vẫn còn lưu lại trong tâm tôi…
Tôi hồi tưởng lại thời thơ ấu của mình: những ngày đầu tiên được cắp sách đến trường học lớp mẫu giáo với người Thầy mà ba năm trước đây có lần tôi được đến thăm khi Thầy tôi đang nằm liệt trên giường trong ngôi nhà rất đơn sơ trên nền nhà cũ mà hơn 50 năm về trước tôi được Thầy tôi dạy những bài học lễ nghĩa đầu tiên, viết những mẫu tự đầu tiên… Thầy đã gắn bó với quê hương và đám học trò nghèo suốt những năm dài bom đạn, Thầy đã ân cần kiên nhẫn cầm bàn tay của từng học trò nhỏ nắn nót từng chữ viết… Bây giờ khi nhớ về Thầy thì cũng là lúc Thầy tôi đã qua đời hơn một năm.
Người Thầy thứ hai rất ấn tượng trong tôi là người đã dạy tôi trong năm học lớp nhất (bây giờ gọi là lớp năm). Thầy rất lạc quan và năng động trong mọi việc dù Thầy bị cụt tay phải nên phải dùng tay trái để viết, chữ viết của Thầy rất đẹp, cách dạy toán của thầy rất dễ hiểu… Thầy là sự khích lệ rất lớn cho chúng tôi khi phải ôm vở đến trường giữa những năm quê hương nội chiến.
Nhớ về thời trung học, các Thầy Cô đáng kính đã để lại trong tôi những cảm tình sâu sắc như: cô giáo dạy Lý Hóa mới ra trường, thỉnh thoảng cô chở tôi đi một chặng đường vì trời mưa nước ngập làm tôi không thể tự đạp xe của mình đến trường được; cô giáo dạy Việt văn lúc nào cũng mỉm cười và thường gọi chúng tôi là các con; Thầy dạy Anh văn rất hoạt bát; Cô dạy Toán rất thông minh; thầy dạy Triết rất uyên thâm…
Giai đoạn vào tu viện tôi được đánh thức mỗi sáng khi đang ngủ ngon, được học chăm sóc trẻ bị bỏ rơi sau những giờ đến lớp. Các Soeur dạy và làm gương cho chúng tôi nếp sống kỷ luật, sự phục vụ, và tận hiến.
Rồi khi vào Thần Học Viện, tôi được học với cụ Mục sư Ông Văn Huyên – một người Thầy khả kính và rất chuẩn mực. Những bài dạy của Cụ rõ ràng, chính xác đã gây dựng đức tin và chức vụ cho nhiều tôi tớ Chúa. Những lời khuyên dạy đầy linh quyền, dù cứng rắn song nhẹ nhàng, đúng người, đúng việc của Cụ rất hữu ích cho chúng tôi; sự quan tâm sâu sắc đầy yêu thương của Cụ đối với từng sinh viên trong Viện như Phao-lô đối với Ti-mô-thê, Cụ như một người cha thuộc linh của mọi người.
Sau khi nhớ về những người Thầy cũ, chị em chúng tôi sắp xếp đến thăm một người đang ở gần chúng tôi, một người rất đặc biệt đối với tôi, đó là cụ bà Quả phụ Mục sư Kiều Toản.
Cụ bà Quả phụ Mục sư Kiều Toản
Cụ bà Quả phụ Mục sư Kiều Toản năm nay 91 tuổi. Cụ sinh tại Sơn Tây, cách Hà Nội 30km. Cụ là một nữ học viên ưu tú của trường Kinh Thánh Đà Nẵng niên khoá 1942-1943. Cụ lập Gia đình với Cố Mục sư Kiều Toản ngày 24/08/21943. Hai Cụ có tám người con. Hiện nay các con Cụ đều là những người hầu việc Chúa.
Cụ bà Quả phụ Mục sư Kiều Toản là một phụ nữ đảm đang: trong khi hầu việc Chúa có hai lần ông bị ở tù, Cụ ở nhà quán xuyến lo cho các con và thay ông thăm viếng nâng đỡ gây dựng đức tin cho bầy chiên Katu tại An Điềm – Quảng Nam. Cụ không nề hà gian khổ trong suốt những năm tháng cùng ông lăn lộn trên cánh đồng thuộc linh miền núi.
Sau năm 1975, tại khu dưỡng lão của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam ở Hòn Chồng – Nha Trang, Cụ Bà Quả phụ Mục sư Kiều Toản đứng ra tổ chức nhóm cầu nguyện phụ nữ vào mỗi chiều thứ 7, từ nhà này sang nhà khác. Thỉnh thoảng Cụ quét dọn đường trong khu dưỡng lão, thu gom những bẹ dừa làm củi nấu nướng cho gia đình.Cụ tận dụng từng chút đất trồng rau, Cụ rất hiếu khách, dù kinh tế có chật vật nhưng cụ rất ân cần mời những người từ quê đến dùng những bữa cơm thân tình…
Cụ cũng làm gương cho tôi về sự nhẫn nhục: có một lần nghe người ta nói rất xấu về Cụ – tôi nghĩ Cụ buồn nên đến thăm – nhưng thấy Cụ thản nhiên, tôi hỏi: “Cụ có buồn không? Sao Cụ vẫn thản nhiên khi người ta nói Cụ như thế? “– Cụ nói: “Tôi đã chết rồi.” Nghe vậy tôi chỉ biết lặng yên và thầm tạ ơn Chúa.
Sáng nay chị em tôi đến thăm Cụ, chúng tôi thấy Cụ thật gầy, song Cụ rất vui. Chúa cho tai Cụ không nặng, mắt Cụ không mờ: Cụ nghe và hiểu rõ lời người đối diện nói, Cụ chăm chỉ đọc Kinh Thánh và nhiều sách bồi linh mỗi ngày.
Khi được hỏi về mong ước của Cụ hiện nay là gì? Cụ chẳng nói gì về nhu cầu mình, Cụ chẳng than về tuổi già sức yếu, Cụ chẳng mong con cháu Cụ giàu sang,… Nhưng Cụ chỉ quan tâm đến công việc Hội Thánh chung, quan tâm đến các tôi tớ Chúa, đến anh chị em Katu ở Quảng Nam, đến đồng bào bị lũ lụt, đến phụ nữ cô đơn, đến trẻ em cần được dạy dỗ…
Nhìn khuôn mặt sạm nắng vì đã dấn thân trong thời tuổi trung tráng, nhìn mái tóc bạc phơ vì tuổi già chồng chất, nghe những lời tâm sự của Cụ… lòng tôi thật cảm động.
Cảm tạ Chúa về tấm lòng của Cụ với Chúa, với gia đình, với Hội Thánh, với tha nhân. Cảm tạ Chúa về tâm thần dịu dàng im lặng của Cụ.
Cảm tạ Chúa vì Cụ thực sự là một phụ nữ xinh đẹp như trong I Phi-e-rơ 3:4 “…tìm kiếm sự trang sức bề trong giấu ở trong lòng, tức là sự tinh sạch chẳng hư nát của tâm thần dịu dàng im lặng, ấy là giá quí trước mặt Đức Chúa Trời.”
Tôi chưa từng được học nơi Cụ một chữ nào, tôi chưa từng nghe Cụ có bằng cấp gì, tôi cũng chưa tận mắt thấy Cụ đứng trên bục giảng, nhưng đối với tôi, Cụ là một người thầy, một người Thầy thầm lặng dạy chúng tôi nhiều điều, và là một gương sáng đáng cho chúng tôi, những người phụ nữ Tin Lành thời nay noi theo.
Núi Sạn, 20/11/2013