Bài thứ 230: Kẻ Nhu Mì

798

 

Phước cho những kẻ nhu mì, vì sẽ hưởng được đất.

Ma-thi-ơ 5:5

 

 

Lời dạy này cũng hoàn toàn ngược với quan niệm thông thường của người đời, vì người đời chủ trương chinh phục, chiếm đoạt, thu nhập cho nhiều và dư thừa.  Thành công theo đời là chinh phục và sở hữu.

 

Trước khi phân tích phước lành này, ta cần xét tương quan của nó với hai phước lành đầu tiên, vì các phước lành này đều có tương quan tới nhau chặt chẽ.  Phước lành trước đưa đến phước lành kế tiếp.

 

Phước lành thứ nhất bảo ta hãy nhận ra sự yếu đuối và bất năng của mình.  Ta phải gặp Chúa không những chỉ trong Mười Điều Răn và luật luân lý đạo đức, nhưng còn trong bài giảng trên núi và trong cuộc đời của chính Chúa Cứu Thế Giê-xu nữa.  Bất cứ người nào nghĩ rằng có thể tự sức thực hiện được tất cả thì người ấy chưa hiểu như thế nào là tin Chúa thật.  Khởi đầu phải tự nhận rằng mình chẳng có gì cả; phải thấy mình nghèo khó trong tâm linh và hoàn toàn bất lực.  Tới đó, ta sang một giai đoạn mới, thấp hơn một bậc, đó là tự nhận thấy mình đầy tội lỗi và tội thật sự làm chủ cuộc đời mình, tội trong tư duy, ý nghĩ, hành động.  Ta khóc than vì tình trạng hư hoại của đời mình.  

 

Nhưng rồi cấp độ thấp hơn nữa là tự hạ mình: nhu mì.  Đó chính là bài học của phước lành thứ ba.

 

Tại sao vậy?  vì tại đây ta đến chỗ bắt đầu quan tâm về người khác.  Khi tôi thấy được cái trống rỗng và bất lực của mình khi đối diện với đòi hỏi của tin mừng và luật Chúa, tôi thành thật với tôi rằng, tội lỗi và ma quỷ đang chế ngự trong tôi, cốt kéo tôi xuống.  Nhưng điều đó chỉ một mình tôi biết.  Tôi không muốn cho người khác biết và phê bình tôi, vì ai cũng muốn tự lên án mình nhưng rất ghét bị người khác lên án.  Tôi nhận tôi là người có tội, nhưng tôi không muốn ai bảo tôi là tội nhân cả.  Đối với người khác tôi cần phải nhu mì, coi mình là một tội nhân được cứu mà thôi.

 

Nhu mì là gì?  Trước tiên, nhu mì không phải là một tính bẩm sinh.  Nhu mì là một thánh tính mà mỗi người tin Chúa đều phải có.

 

Chữ nhu mì thường bị người ta hiểu lầm cho là khiếp nhược, hèn nhát.  Sứ đồ Phi-e-rơ dạy quý bà trong thư I Phi-e-rơ 3:4 rằng: Hãy tìm trang sức bên trong, giấu ở trong lòng, tức là sự tinh sạch chẳng hề hư nát của tâm thần dịu dàng im lặng, ấy là giá quý trước mặt Đức Chúa Trời.  Như thế nhu mì là dịu dàng, yên lặng.

 

Cùng trong chương 3 câu 15 Sứ đồ  Phi-e-rơ dạy: Nhưng hãy tôn Chúa Cứu Thế, là Chúa, làm thánh trong lòng mình.  Hãy thường thường sẵn sàng để trả lời mọi kẻ hỏi về hi vọng trong anh em, nhưng phải hiền hòa và kính sợ. Như thế nhu mì còn là hiền hoà và kính sợ.

    

Gia-cơ dạy trong chương 3:13 rằng:  Trong anh em có người nào khôn ngoan thông sáng chăng? Hãy lấy cách ăn ở tốt của mình mà bày tỏ việc mình làm bởi khôn ngoan nhu mì mà ra.”

 

Như thế nhu mì không phải là nhu nhược nhưng là xử sự khôn ngoan.

 

Ma-thi-ơ 11:29 Chúa Giê-xu nói: Ta có lòng nhu mì khiên nhường.”

 

Chúa dạy, những người nhu mì sẽ hưởng được đất.  Người nhu mì là người đã thật sự hưởng được đất ngay trong đời này theo nghĩa sau đây:

Người nhu mì là người luôn luôn thỏa mãn, bằng lòng với những gì mình đang có, nghĩa là không có gì nhưng có tất cả.

 

Câu này có nghĩa là, dù người tin Chúa sống trên đời bị thiệt thòi về nhiều phương diện, về tài sản, về của cải, chỉ vì tin Chúa và sống nhu mì, không giành giật, không chiếm đoạt, nên nhớ rằng về phần tâm linh người ấy rất giàu có, vì đời sống có ý nghĩa và phong phú phúc lành.    

 

Phần của người tin Chúa là giá trị muôn đời, nếu người ấy vì Chúa dạy mà sống ngay lành, trung tín, dịu hiền.

 

Nhu mì khiêm nhường không phải là lối sống trong xã hội loài người mạnh được, yếu thua.  Nhu mì khiêm nhường là đức tính của Chúa và của những người tin Chúa.

 

Người ta nói rằng: Lấy ác trả ác là lối sống của thú hoang; lấy thiện trả thiện là lối sống của con người; nhưng lấy thiện trả ác là lối sống Chúa dạy.

 

Chúng ta là con của Chúa, phải theo gương Chúa mà sống.  Đức tính nhu mì được thể hiện trong cuộc đời của Chúa Giê-xu trên mặt đất.  Ngay cả khi Chúa bị đem ra tòa và bị lên án tử hình, Chúa vẫn hiền lành, không oán hận, không căm thù.  Khi bị đóng đinh treo trên thập giá, Chúa còn cầu xin Cha tha thứ cho những kẻ hành quyết Ngài, vì họ không biết rõ việc làm của họ.

 

Bài trướcBài thứ 229: Phước Cho Những Kẻ Than Khóc!
Bài tiếp theoHuấn Luyện Chấp Sự Tỉnh Bến Tre.