CHƯƠNG 10: PHẠM TỘI

142

CHƯƠNG 10: PHẠM TỘI

Tiến sĩ Gary Collins

 

      Trong nhiều thế kỷ, các nhà thần học và các nhà triết học đã tranh cãi nhiều về vấn đề đau khổ. Tại sao người ta đau khổ? Có phải sự đau khổ phục vụ cho bất kỳ mục đích hữu ích nào chăng? Sự đau khổ con người có thể giảm bớt hoặc bị loại ra ngoài thế nào?

      Trong mọi vật được sáng tạo chỉ đau khổ về thể xác, chỉ có con người là phải chịu đựng nỗi đau đớn về thể xác, kinh nghiệm những nỗi thống khổ và phải chịu đựng về tinh thần. Bởi vì sự hiểu biết, con người có thể lo lắng về tương lai, ưu tư về quá khứ, có ý thức về những nỗi đau đớn thể xác hoặc về tinh thần, và chiến đấu với nan đề khổ đau của chính mình. Nhiều khi sự chịu đựng xảy ra mà không phải vì lỗi của cá nhân. Thông thường người ta phải chịu đựng nó bởi vì điều mà chính họ đã làm.

      Lỗi lầm, tội lỗi là căn bản của nhiều sự đau khổ của con người. Một nhà tư vấn có lần đã nói “Tôi sẽ chẳng bao giờ quen với nó cả. Không có cái hộp nào đủ lớn để giữ tất cả lỗi lầm của con người cả.” Qua nói chuyện với những người thất vọng, cô đơn, sầu não, các thành viên của những gia đình thô bạo, với những người đồng tính luyến ái, nghiện rượu, với những người ốm nặng không thể cứu chữa được, những người đang chiến đấu với sự xào xáo trong hôn nhân, hoặc người đối diện với bất kỳ vấn đề nào khác…Ta sẽ phát hiện ra người ta kinh nghiệm về tội lỗi như là một phần của những khó khăn của họ.

      Theo nhà tâm lý học Bruce Narramore “Một sự hiểu biết về những cảm giác phạm tội là trung tâm đối với bất kỳ sự hiểu biết nào về tình trạng bất bình thường về tâm lý”.

      Một vài kiểu phạm tội đã được nhận diện. Những kiểu này có thể được chia làm hai loại chung: phạm tội khách quan và phạm tội chủ quan.

  

1.Phạm tội khách quan

      Phạm tội khách quan xuất hiện khi một điều luật của luật pháp không được thực thi, và người không thi hành luật phạm tội mặc dù người ấy không cảm thấy có lỗi. Bốn loại được phân chia sau đây thường ít được phân biệt, chồng chéo lẫn nhau, hay hợp lại với nhau.

      – Phạm tội hợp lệ: sự vi phạm luật pháp của xã hội. Một người lái xe vượt đèn đỏ hoặc ăn cắp thứ gì đó trong cửa hàng là phạm lỗi, ngay cả khi người đó không bị bắt quả tang và bất chấp việc họ có cảm thấy hối hận hay không.

      – Phạm tội thuộc lý thuyết: liên quan đến một sự thất bại để vâng lời luật pháp của Đức Chúa Trời. Thánh Kinh miêu tả các chuẩn mực thiêng liêng đối với cách cư xử của con người, các chuẩn mực mà mỗi người có lúc vi phạm bởi các hành động hoặc những suy nghĩ. Theo như Kinh Thánh “mọi người đều là tội nhân”, Tất cả mọi người có tội với Đức Chúa Trời, mặc dù họ có cảm thấy nhận điều đó hay không.

      Nhiều người tin rằng điều đúng và điều sai có quan hệ với nhau, phụ thuộc vào những kinh nghiệm, học tập cá nhân và các giá trị khách quan. Có nhiều nhà tâm thần học và tâm lý học không chấp nhận sự tồn tại của phạm tội mang tính lý thuyết, họ chấp nhận việc có những chuẩn mực tuyệt đối về đạo đức. Nếu như các chuẩn mực tuyệt đối này tồn tại, có nghĩa là phải có một Đấng lập ra các chuẩn mực ấy – đó chính là Đức Chúa Trời.

      Phạm tội cá nhân: Khi một người vi phạm các chuẩn mực cá nhân riêng của người ấy hoặc kháng cự lại những sự thôi thúc của lương tâm. Chẳng hạn như, một người cha quyết định đi nhà thờ mỗi Chúa nhật với gia đình, ông sẽ kinh nghiệm được sự phạm tội khi đi làm việc vào Chúa nhật; người vợ béo phì của ông có thể cảm thấy phạm tội khi bà quá nuông chìu chính mình với sự cám dỗ của món ăn nhiều béo.

      – Phạm tội mang tính xã hội: xuất hiện khi một người không thực thi một quy tắc không được viết ra nhưng được xã hội xem trọng. Nếu như một người cư xử thô lỗ, nói xấu có chủ ý hại đến người khác, chỉ trích một cách thiếu tế nhị, hoặc làm ngơ một ai đó đang cần sự giúp đỡ, mọi điều đó không vi phạm luật pháp nào, và có thể không kèm theo những cảm giác hối hận. Vì vậy, người phạm tội như thế đã vi phạm những sự trông mong từ những người khác trong xã hội, trong khu láng giềng, nhà thờ, hoặc công sở.

      Hầu hết người ta cảm thấy không thoải mái khi họ không thực thi một điều luật trong xã hội (phạm tội hợp lệ); khi chủ tâm kháng cự lại hoặc làm ngơ với các điều luật, mạng lệnh đến từ Đức Chúa Trời (phạm tội mang tính lý thuyết): khi vi phạm một chuẩn mực cá nhân (phạm tội cá nhân); khi hành động trái ngược lại những sự trông mong từ xã hội (phạm tội mang tính xã hội). Tuy nhiên, có khả năng một người làm tất cả những điều này và chẳng bao giờ cảm thấy phạm tội gì cả! Người phạm tội có thể hành động cách thô bạo, thế nhưng họ lại cảm thấy không sầu não hoặc hối hận gì cả.

2.Phạm tội chủ quan.

      Phạm tội chủ quan ám chỉ đến những cảm giác bên trong của một người, như sự hối hận và sự tự-xét đoán chính mình, nó xuất hiện bởi vì các hành động của họ. Chúng thường xuất hiện khi một người suy nghĩ về điều gì đó mà họ cảm thấy sai trái, hoặc khi thất bại làm điều gì đó ngoài sự mong muốn. Thường có sự nản lòng, lo lắng, sợ hãi về sự trừng phạt, sự tự-đánh giá chính mình thấp, và một trạng thái cô độc. Tất cả các điều đó liên kết nhau tạo thành cảm giác như là phạm tội. Những cảm xúc này có thể là mạnh mẽ hoặc yếu đuối. Thường thường thì chúng không tốt nhưng chúng cũng không luôn luôn xấu. Chúng có thể kích thích người ta thay đổi cách cư xử của họ và nhận được sự tha thứ từ Đức Chúa Trời hoặc từ những người khác. Tuy nhiên, những cảm giác phạm tội cũng có thể có những ảnh hưởng mang tính phá hủy và ức chế, và cũng làm cho cuộc sống càng khốn khổ hơn.

Những cảm giác phạm tội chủ quan có thể thích hợp hoặc không thích hợp.

      Những cảm giác phạm tội thích hợp hiện diện khi một người không thực thi luật pháp, không tuân theo các sự dạy dỗ trong Kinh Thánh, hoặc vi phạm những tiếng gọi từ lương tâm của họ và cảm thấy hối hận tương xứng với tính nghiêm trọng của các hành động đó.

      -Những cảm giác phạm tội không thích hợp là những cảm giác không sự tương xứng với tính nghiêm trọng của hành động phạm tội. Chẳng hạn như đối với một vài người có thể ăn cắp và giết người, nhưng họ cảm thấy không có tội. Mặc dầu tội đó chỉ là một hành động hoặc một suy nghĩ nhỏ hoặc thiếu tế nhị, những cảm giác phạm tội không thích hợp này có thể xuất hiện trong chính mỗi người, nhưng với tác động của những người khác như lời bình phẩm hoặc xét đoán khiến người ta cảm thấy có lỗi.

      Phạm tội là một chủ đề lớn và phức tạp. Trong việc tư vấn, thật là quan trọng để phân biệt giữa phạm tội khách quan và chủ quan, mặc dù hầu hết những người được tư vấn đều quan tâm về phạm tội chủ quan. Điều này cũng thật là quan trọng để hiểu được sự dạy dỗ về phạm tội trong Thánh Kinh thế nào.

 

KINH THÁNH VÀ PHẠM TỘI

      Trong Kinh Thánh, từ được dịch là “phạm tội” hoặc “có lỗi”, trong tiếng Hy  Lạp ám chỉ đến phạm tội mang tính lý thuyết, và ít có sự khác nhau giữa phạm tội và tội lỗi. Một người có tội khi người ấy không thực hành luật pháp của Đức Chúa Trời. Kinh Thánh chẳng bao giờ đề cập hay ám chỉ đến những cảm giác phạm tội chủ quan.

      Kinh Thánh dạy mọi người nên cố gắng làm thức tỉnh những cảm giác phạm tội nơi người khác. Nhiều bậc cha mẹ, thầy cô giáo, những thầy giảng đạo, những nhà truyền giáo, và những người tư vấn rất cố gắng làm thức tỉnh cảm giác phạm tội và điều này sẽ là động cơ, sự kích thích trưởng thành Cơ Đốc, phê phán những người làm điều sai, ngăn chặn sự kiêu ngạo, phòng ngừa sự phạm tội, hoặc kích thích những sự đóng góp về tài chánh. Những điều này rất có ý nghĩa đối với các Cơ Đốc nhân.

      Những người không phải là Cơ Đốc nhân bị chỉ trích về các thủ đoạn, sự tranh luận về việc họ làm thức tỉnh những cảm giác phạm tội không lành mạnh. Khi người ta nói về phạm tội, họ thường ám chỉ đến những cảm giác phạm tội chủ quan.

      Có phải có khả năng để giúp đỡ người khác giải quyết tội lỗi hoặc phạm tội khách quan của họ mà không cần tạo ra những cảm giác phạm tội không lành mạnh chăng? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần xem xét về các quan niệm của lòng đau thương có tính chất xây dựng và sự tha thứ.

Lòng đau thương có tính chất xây dựng, còn được gọi là lòng đau thương thiên thượng, là một thuật ngữ được Bruce Narramore sử dụng, ông đặt nền tảng trên Kinh Thánh trong II Cô-rinh-tô 7:8-10 “Chúng tôi không phải chỉ được an ủi vì Tít đến mà thôi, nhưng còn vì sự an ủi mà anh ấy đã nhận được từ anh chị em nữa. Anh ấy đã tường thuật cho chúng tôi biết lòng mong mỏi, sự than khóc, và lòng nhiệt thành của anh chị em dành cho tôi; điều ấy đã làm cho tôi càng vui mừng hơn. Nếu như trong thư trước tôi có làm cho anh chị em đau buồn, thì tôi cũng không hối tiếc. Mà nếu khi trước tôi có hối tiếc, vì tôi thấy bức thư ấy ít nữa cũng đã làm cho anh chị em đau buồn trong ít lâu”. Trong đoạn Kinh Thánh này, Phao-lô đề cập lòng đau thương thiên thượng mang đến sự ăn năn, sự ăn năn hướng tới sự cứu rỗi và không có sự hối tiếc. Lòng đau thương thiên thượng là lòng đau thương có tính chất xây dựng bởi vì nó hướng đến sự thay đổi có tính chất xây dựng, có tính chất lành mạnh.

      Narramore nói rằng nhiều Cơ Đốc nhân có thể vượt qua được các vòng luẩn quẩn lặp đi lặp lại của tội lỗi, những cảm giác phạm tội, rồi đến việc ăn năn, có sự khuây khỏa tạm thời, nhưng sau đó lại tái diễn. Đối với người tin Chúa, câu Kinh Thánh “Nếu chúng ta xưng nhận tội lỗi mình, thì Ngài là Đấng thành tín và công chính, sẽ tha thứ những tội lỗi chúng ta và tẩy sạch khỏi chúng ta mọi điều bất chính” (I Giăng 1:9), được họ sử dụng để loại bỏ phạm tội thuộc tâm lý.

      Sau khi Phi-e-rơ đã chối Đấng Christ, ông đã khóc lóc đắng cay; ông đã hối hận thật sự, ăn năn thành thật, và một sự khao khát để được thay đổi. Ông đã ăn năn tội mình, đã được thoát khỏi bất kỳ cảm giác lỗi lầm nào, và ông đã biết được rằng ông đã được tha thứ.

 Sự tha thứ thiêng liêng là một chủ đề chính trong Kinh Thánh, đặc biệt là trong Tân Ước. Qua sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jêsus Christ, con người được hưởng sự tha thứ và được hoàn toàn phục hòa trong mối thông công với Đức Chúa Trời.

      Mặc dầu một vài đoạn Kinh Thánh đề cập đến sự tha thứ mà không thảo luận đến sự ăn năn, Có những đoạn Kinh Thánh khác lại ám chỉ đến ít nhất hai điều kiện để được Đức Chúa Trời tha thứ. Đầu tiên, tội nhân phải ăn năn, thứ hai, phải vui vẻ để tha thứ cho người khác. Chúa Jêsus đề cập đến điều này ít nhất ba lần trong Kinh Thánh. Người tìm kiếm sự tha thứ phải ăn năn thành khẩn và vui vẻ tha thứ cho người khác.

      Hàng triệu người, bao gồm các Cơ Đốc nhân, mỗi ngày họ quên đi Đức Chúa Trời và vì thế tội lỗi đến với họ. Những người này phạm lỗi trước Đức Chúa Trời thế nhưng họ không cảm thấy phạm tội về các hành động của họ.

CÁC NGUYÊN NHÂN CỦA LẦM LỖI

      Phạm tội chủ quan xảy ra khi chúng ta đã vi phạm các chuẩn mực hợp lý, về lý thuyết, về tính người, hoặc những luật lệ của xã hội, và các chuẩn mực đạo đức. Thường hơn, người phạm tội khi đã bị bắt quả tang sẽ e ngại bị trừng trị, hoặc người đó đang kinh nghiệm được những cảm giác phạm tội khách quan.

      Tại sao người ta cảm thấy có lỗi? Có thể có vài nguyên nhân:

1.Kinh nghiệm quá khứ và những sự trông đợi thiếu thực tế.

      Các chuẩn mực của một người về điều gì đúng và sai, tốt và xấu, thường thì được phát triển ở giai đoạn thời thơ ấu. Suy nghĩ và nhận thức của họ phát triển qua quá trình học tập các chuẩn mực từ bố mẹ chúng và từ những người khác. Mỗi đứa trẻ học hiểu được sự khác nhau giữa điều đúng và sai, và chẳng bao lâu sau đứa trẻ ấy sẽ có một sự nhận thức về các sự trừng phạt xảy ra khi nó không vâng lời.

      Nhiều gia đình có các chuẩn mực quá cứng nhắc và quá cao đến nỗi đứa trẻ hầu như chẳng bao giờ đạt đến. Đứa trẻ ít nhận bất kỳ sự khen ngợi hoặc sự khích lệ nào từ bố mẹ chúng, bởi vì bố mẹ chúng chẳng bao giờ hài lòng về chúng. Vì đứa trẻ bị khiển trách, kết tội, bị chỉ trích và bị trừng phạt quá thường xuyên, đứa trẻ sẽ cảm thấy như mình có lỗi và có thể thất bại liên tục sau đó. Như là một kết quả, chúng có những cảm giác tự-khiển trách chính mình, tự-chỉ trích chính mình, cảm thấy mình bị hạ thấp, và có những cảm giác phạm tội tồn tại. Những chuẩn mực nêu trên cũng có thể đến từ mục sư hay những người hướng dẫn trong Hội Thánh, là những người không tán thành và xét đoán chúng, thế nhưng họ lại không cố gắng để hiểu và đưa ra sự hướng dẫn thực tế. Nếu như một người trẻ quyết định chống lại các lời dạy dỗ về đạo đức, sự dạy dỗ của bố mẹ chúng hoặc từ những người khác, có thể đó là những cảm giác phạm tội có điều kiện.

      Khi bọn trẻ trưởng thành hơn, chúng có thể thường xuyên chấp nhận các chuẩn mực của bố mẹ chúng và người khác. Khi các chuẩn mực này cứng nhắc một cách thiếu thực tế, những người trẻ tuổi dường như trông đợi sự hoàn hảo nơi chính mình, tự đưa ra các chuẩn mực mà chúng chẳng bao giờ có thể đạt đến được, lúc đó chúng sẽ trượt vào những cảm giác phạm tội và tự-khiển trách chính mình, theo sau đó là những thất bại không thể tránh khỏi. Những cảm giác phạm tội là một trong những cách mà người ta tự trừng phạt chính mình và tự đẩy chính mình vào việc cố gắng để làm tốt hơn.

      Chẳng hạn như đối với một vài người tham công tiếc việc, họ có vẻ bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những cảm giác phạm tội. Bởi vì việc học tập và những kinh nghiệm trong quá khứ của họ, những người này cảm thấy sợ hãi rằng họ không thể cung cấp đủ hoặc không ‘lấy lại được thời gian’. Như là một kết quả, họ cố gắng làm việc cực nhọc trong một nỗ lực là phải kết quả nhiều hơn. Một cách vô ý thức, có lẽ họ có hy vọng rằng điều này sẽ giúp họ thoát khỏi cảm giác cảm thấy có lỗi.

      Sự đáp ứng tốt nhất đối với các chuẩn mực thiếu thực tế là chấp nhận các chuẩn mực thực tế. Đức Chúa Trời mong đợi nơi mỗi người luôn cố gắng hướng về mục đích trở thành Cơ Đốc nhân trưởng thành. Ngài không tán thành tội lỗi và sự bất tuân, nhưng Ngài đã sai Con Ngài xuống thế gian, vì thế mọi người có thể nhận được sự tha thứ và cuộc sống sung mãn. Chắc chắn Ngài không muốn một ai nhận lấy sự tự-xét đoán và những cảm giác phạm tội, một thái độ như thế không có nền tảng Thánh Kinh.

  1. Mặc cảm tự ti và áp lực xã hội.

      Thật khó để biết liệu một cảm giác thấp hèn có tạo ra được những cảm giác phạm tội hoặc những cảm giác phạm tội sản sinh được cảm giác thấp hèn hay không. Paul Tournier, trong cuốn sách có sức thuyết phục tổng quát Phạm tội và Ân điển, đã đặt tựa đề cho chương đầu tiên của sách là ‘Sự thấp hèn và phạm tội’. Ông cho rằng có thể không có sự phân biệt rõ ràng nào giữa phạm tội và sự thấp hèn, ngoại trừ tất cả sự thấp hèn được kinh nghiệm như là phạm tội.

      Tại sao người ta cảm thấy mình thấp kém? Điều này xảy ra vì sự tự-xưng công chính của họ bị ảnh hưởng sâu sắc bởi các ý kiến và những lời chỉ trích từ những người khác. Trong cuộc sống mỗi ngày người ta liên tục bị chìm trong bầu không khí với những sự chỉ trích lẫn nhau, vì quá nhiều nên họ không luôn luôn nhận thấy được nó, và họ vô tình thấy được chính mình rất mệt mỏi và sa vào tội lỗi mà không thể thay đổi được. Do đó, áp lực xã hội là nguồn gốc của vô số những cảm giác phạm tội.

3.Sự phát triển lương tâm phạm tội

      Từ “lương tâm” không xuất hiện trong Cựu Ước, có ba mươi mốt lần được đề cập trong Tân Ước và từ này được định nghĩa rõ ràng. Phao-lô đã viết rằng lương tâm là những quy tắc đạo đức thiêng liêng được tạo ra, ‘được viết ra trong’ mọi tấm lòng của con người, và có thể đặt vào trong lòng ta chỉ bởi Đức Chúa Trời, trước khi chúng ta có thể suy nghĩ đến điều đúng hay sai. Thế nhưng lương tâm có thể thiếu nhạy bén không rõ rệt, bởi sự liên hệ với tội lỗi, bởi các sự dạy dỗ về Kinh Thánh đã bị bỏ quên, và bởi vì đã có những ý tưởng xấu xa. Lương tâm có thể là yếu đuối, nhưng chúng có thể mạnh mẽ trở lại. Rõ ràng lương tâm có thể được thay đổi bởi các sự dạy dỗ và các hành động của những người khác.

      Freud, các nhà tâm lý học và các nhà tâm thần học vẫn cho rằng lương tâm được hình thành rất sớm trong cuộc đời của một con người, bởi vì các sự cấm đoán và những sự trông mong từ bố mẹ chúng. Đứa trẻ học biết hành động ra sao để đem lại sự ca ngợi hay sự trừng phạt. Tại giai đoạn đầu tiên này trong cuộc sống, đứa trẻ cũng cảm nhận được sự phạm tội. Khi bố mẹ chúng là những tấm gương tốt, khi căn nhà chúng ấm áp, an toàn, chúng cần được tán thành và có được nhiều sự khích lệ hơn là trừng phạt và chỉ trích chúng. Lúc đó đứa trẻ kinh nghiệm được sự chấp nhận và sự tha thứ. Ngược lại, khi chúng có những tấm gương nghèo nàn về bố mẹ chúng, hoặc sự huấn luyện về đạo đức nhằm trừng phạt, chỉ trích, đầy sợ hãi, và sự đòi hỏi thiếu thực tế, lúc đó đứa trẻ sẽ trở nên giận dữ, cứng rắn, chỉ trích, và tiếp tục chịu nhiều cảm giác có lỗi. Có lúc chúng có thể có sự bạo loạn chống lại những sự dạy dỗ của bố mẹ chúng, và chúng khó chấp nhận những quan điểm thay đổi đến từ những người lớn hơn.

      Khi trưởng thành, bọn trẻ có hướng chuyển dần đến việc cam kết với những ý tưởng mà chúng tin ‘ở trong lòng của chúng’ là đúng. Một người trẻ trưởng thành phản ánh những gì chúng đã được dạy dỗ, cân nhắc các giá trị tốt của những người lão thành, và cuối cùng chúng phải chấp nhận các chuẩn mực riêng của mình. Theo như nhà tâm lý học Lars Granberg “Một lương tâm Cơ Đốc trưởng thành được hướng dẫn từ Kinh Thánh, được khuyến khích thể hiện thành thật về ý tưởng và suy nghĩ được lương tâm chấp thuận, theo những tấm gương tốt của người lớn, từng trải thực tế của lòng tha thứ và lòng ăn năn: chỗi dậy và tiếp tục bước đi mà không chìm đắm trong sự cáo trách bản thân”.

      Nhiều người không đạt tới ý tưởng này; họ được huấn luyện để suy nghĩ cứng rắn về điều đúng và sai, được thuyết phục về những sự thiếu hoàn hảo và những sự không hoàn thiện của cá nhân của họ, sợ hãi về các thất bại hoặc sự trừng phạt, và thiếu sự nhận biết lòng tha thứ trọn vẹn của Đức Chúa Trời. Những người này tiếp tục chìm đắm trong những cảm giác phạm tội. Những cảm giác phạm tội này xảy ra không phải bởi vì sự đau xót về tội lỗi hoặc đáng tiếc về việc luật pháp không được thực thi; chúng là những dấu hiệu của một người sợ hãi sự trừng phạt, sự đơn độc, hoặc sự tự-đánh giá thấp chính mình. Để ủng hộ chính mình, những người như thế thường cứng nhắc, chỉ trích người khác, không tha thứ, e ngại có những quyết định về đạo đức, độc đoán, và có hướng thể hiện một thái độ của sự đề cao về đạo đức của mình, nhưng bởi vì họ quá thường giận dữ và không vui vẻ, nên họ là những người cần để hiểu và cần được giúp nhiều hơn là chỉ trích.

4.Những anh hưởng siêu nhiên.

      Trước khi con người sa ngã vào tội lỗi, rõ ràng A-đam và Ê-va không có lương tâm, không có sự nhận biết về điều thiện hoặc điều ác, và không có cảm giác về tội lỗi. Tuy nhiên, ngay tức thì sau khi họ bất tuân với Đức Chúa Trời, họ đã nhận ra rằng họ đã làm sai và họ né tránh Đức Chúa Trời. Những cảm giác phạm tội khách quan, chủ quan, thuộc lý thuyết học đã chen vào sự sáng tạo của Đức Chúa Trời.

      Như toàn bộ Thánh Kinh tỏ bày, các chuẩn mực của Đức Chúa Trời là cao và con người chính họ cảm thấy mình thật ngu ngốc nếu như họ xem mình không có tội. Vì vậy, một sự nhận biết về phạm tội khách quan có thể đến từ sự nhắc nhở của Đức Thánh Linh là Đấng nhắc nhở loài người về tội lỗi. Ảnh hưởng siêu nhiên này cho con người nhận biết sự làm sạch tội và tạo sự trưởng thành cá nhân của mỗi con người.

      Sa-tan cũng nỗ lực can thiệp vào cuộc sống của con người trước và sau khi phạm tội. Sa-tan cám dỗ người ta và cố gắng làm họ vấp phạm gây ra nhiều cảm giác phạm tội cho con người; Kinh Thánh nói rằng Sa-tan buộc tội những người tin theo Đức Chúa Trời, nó kiện cáo họ trước mặt Đức Chúa Trời. Có lẽ Sa-tan cũng kích thích những người tin Chúa tiếp tục cảm giác có lỗi và không cảm nhận được sự tha thứ, ngay cả khi họ được Đức Chúa Trời tha thứ lỗi lầm.

CÁC HẬU QUẢ CỦA PHẠM TỘI

      Phạm tội khách quan có thể có nhiều hậu quả khác nhau. Không thực thi luật pháp có thể bị bắt và kết tội. Phạm tội mang tính xã hội có thể đem đến sự chỉ trích từ những người khác. Phạm tội cá nhân thường hướng tới sự tự-chỉ trích và xét đoán. Phạm tội có tính lý thuyết có những hậu quả rất nghiêm trọng, Đức Chúa Trời là Đấng công chính và thánh khiết, Ngài không chấp chứa tội lỗi và Ngài cũng không chấp nhận việc không vâng lời Ngài. Theo như Kinh Thánh Đức Chúa Trời tha thứ và ban cho loài người cuộc sống đời đời khi họ đặt niềm tin nơi Đức Chúa Jêsus Christ, là Đấng chết thay cho tội lỗi của họ. Tuy nhiên, sự trừng phạt cuối cùng cho tội lỗi là sự chết, cũng có người không tuân theo luật pháp và tránh được sự trừng phạt trong thế gian, nhưng cuối cùng Đức Chúa Trời sẽ đem lại sự công chính cho mọi người.

      Các hậu quả của phạm tội liên quan đến:

1.Suy nghĩ để chống trả.

      Hầu hết người ta sử dụng cơ chế tự vệ để suy nghĩ nhằm chống trả, né tránh để giảm đi những cảm giác lo lắng, thất vọng, và căng thẳng do sự phạm tội gây ra. Những suy nghĩ này có xu hướng bóp méo sự thật một cách nào đó, và thường người ta không ý thức khi sử dụng chúng. Có thể được thể hiện dưới những hình thức như: – Tìm kiếm những cách để khiển trách người khác, giận dữ với người khác; Từ chối hoặc xa lánh người khác; – Lý sự với một nỗ lực để chứng minh những hành động của mình; – Tránh phải đối diện, chịu trách nhiệm đối với điều đã xảy ra do lầm lỗi của mình, từ chối việc xin lỗi.

 2.Các phản ứng tự-xét đoán.

       Những cảm giác phạm tội hầu như luôn luôn làm thức tỉnh những cảm giác lo lắng và tự-xét đoán chính mình về sự thấp hèn, về điểm yếu, sự yếu đuối, về sự đánh giá chính mình thấp, về sự bi quan, và sự thiếu an toàn. Những phản ứng của người phạm tội có thể là: – Có sự tự-trừng phạt chính mình; – Có thể có một thái độ tự-cảm thấy-có-lỗi “Tôi-không-xứng-đáng-được-đối xử-tốt”; – Bất lực để thư giãn, hoặc tránh đi đến các hoạt động thư giãn bởi vì người đó cảm thấy có lỗi và không thể chấp nhận sự tha thứ; -Từ chối để chấp nhận những lời khen ngợi, không vui vẻ với những yêu cầu của những người khác, có sự ức chế tình dục; – Có cơn giận dữ được che giấu bên trong và không được thể hiện ra, hướng người đó tới sự thất vọng, hướng tới những suy nghĩ muốn tự sát; – Tiếp tục ‘hạ thấp chính mình’ và xa lánh những người bạn của họ; – Gây ra tai nạn có thể theo sau những cảm giác phạm tội.

3.Các phản ứng thuộc thể chất.

      Những cảm giác phạm tội, cũng như bất kỳ phản ứng thuộc tâm lý khác, có thể sản sinh sự căng thẳng thể chất. Khi những sự căng thẳng tồn tại trong một người và không được giải phóng thì cơ thể yếu dần. Nghiên cứu gần đây đã tìm ra các hậu quả thuộc sinh lý học về sự tự-khiển trách tích lũy trong nhiều năm, tự khiển trách chính mình trong một giai đoạn đủ-dài, cơ thể bị ảnh hưởng trầm trọng, trở nên xấu đi. Chịu đựng gánh nặng phạm tội có thể khó khăn nhiều hơn chịu đựng được nỗi đau thể chất.

4.Nỗi đau đạo đức.

      Có lẽ hàng ngàn bài báo được viết về chiến tranh Việt Nam và những vết sẹo về cảm xúc vẫn còn nằm trong nhiều cựu chiến binh quân đội Hoa Kỳ. Nhiều người đã thấy được nhiều sự man rợ quá mức, sự tàn nhẫn, và bạo lực; chính họ có thể đã chịu một vài điều tàn nhẫn ấy. Theo thống kê, một trong năm cựu chiến binh đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi sự căng thẳng, rối loạn bên trong họ; nó thể hiện không chỉ căng thẳng về tâm lý mà còn về nỗi đau đớn đạo đức. Mặc cảm phạm tội không thể bị thải hồi nhanh chóng, bởi vì những kinh nghiệm của họ với bạo lực. Nhiều cựu chiến binh vẫn còn cảm thấy một lỗi lầm cùng với sự xấu hổ, sự lúng túng, thất vọng, giận dữ, những sự trống rỗng, nỗi sợ hãi, mất tình thân, và một bất lực để tin cậy những người khác. Nhiều cựu chiến binh kinh nghiệm một ‘phiền não đau đớn về đạo đức’ sâu sắc, xuất hiện từ thực tế đã dính líu với các hành động gây ra những hậu quả ghê gớm và có thực.

      Không có phương cách nào để xóa bỏ nhanh chóng nỗi đau ấy – người chết luôn là người chết, người tàn tật mãi mãi là tàn tật, và không có phương cách nào để khước từ trách nhiệm hoặc phủ nhận việc đáng bị khiển trách của người nào. Những sự nhận ra này tồn tại trong suy nghĩ của những người đang sống trong nỗi đau đạo đức.

      Các lỗi lầm mà một người sai phạm thường chuyển hóa trực tiếp đến nỗi đau của những người khác. Nhiều người cố gắng nhưng họ thất bại để nhận sự giúp đỡ từ những người tư vấn, thế nhưng không có ý tưởng hoặc không thể nào giúp đỡ những người chịu đựng gánh nặng có lỗi khi họ tìm đến sự tư vấn.

 5.Sự ăn năn và sự tha thứ.

      Các hậu quả của những cảm giác phạm tội không phải tất cả là tiêu cực. Một vài người đã học chấp nhận các lỗi lầm, và trưởng thành từ những lỗi lầm ấy, để ăn năn trước mặt Đức Chúa Trời và trước những người khác, và để nghỉ ngơi với sự hài lòng trong sự đảm bảo: “Còn nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành-tín công-bình để tha tội cho chúng ta, và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian-ác”.

TƯ VẤN VÀ PHẠM TỘI

      Hiếm khi ai đó tìm đến việc tư vấn chỉ bởi vì phạm tội chủ quan. Cố gắng nhớ lại sự nhấn mạnh này về lòng đau thương có tính chất xây dựng và lời hứa tha thứ thiêng liêng khi người tư vấn tìm sự giúp đỡ cho cả hai loại người có phạm tội khách quan và những người kinh nghiệm được những cảm giác phạm tội chủ quan. Khi chú ý, chúng ta sẽ thấy hầu hết những người được tư vấn không thấy được các hậu quả của phạm tội khách quan, và người ta tìm đến để được tư vấn bởi vì những cảm giác phạm tội chủ quan.

      Trong việc tư vấn những người phạm tội, người tư vấn Cơ Đốc sẽ thuận lợi hơn những người tư vấn không tin Chúa. Phạm tội là một vấn đề đạo đức và những cảm giác phạm tội xuất hiện từ những thất bại đạo đức. Người tư vấn không tin Đức Chúa Trời phải giải quyết các giá trị, sự tha thứ, hành động chuộc lỗi, và các vấn đề có liên quan đến phạm tội lý thuyết. Họ phải thảo luận các chuẩn mực đạo đức, là điều có thể ít được hiểu biết đến. Các mục đích thuộc tâm lý học được đặt nền tảng trên việc giúp đỡ người khác nhận được sự khôn ngoan trong cách cư xử cá nhân của họ, cải thiện sự thể hiện cơn giận, phục hồi các chuẩn mực, những nỗ lực lấp chỗ trống và những điều đó có vẽ hiếm khi mang lại sự thay đổi vĩnh viễn.

      Thật không thực tế để khẳng định rằng phạm tội và các mặc cảm phạm tội có thể được chuyển đổi bằng các phương pháp thực tế. Nhiều người không thể nhận ra những lẽ thật trong Kinh Thánh về sự ăn năn, sự tha thứ, và sự công chính, mà từ những quan niệm này có thể giúp đỡ hiệu quả cho những người có những cảm giác phạm tội. Người tư vấn Cơ Đốc đặt nền tảng sự giúp đỡ trên quan niệm đó và có thể mang nhiều hiệu quả.

1.Hiểu biết và chấp nhận.

      Những người với những cảm giác phạm tội thường kết tội chính mình đồng thời trông đợi những người khác kết tội. Do vậy, những người này có thể tìm đến sự tư vấn với thái độ tự-đề phòng hoặc một thái độ tự-khiển trách. Người tư vấn có thái độ thế nào với những người sa ngã vào tội lỗi? Bạn cảm thấy thế nào khi những người này ăn năn và quyết định thay đổi? Đáp ứng của bạn là gì nếu như họ có vẻ không có sự nhận biết về việc làm sai trái và không có cảm giác xấu hổ hoặc đau xót?

      Thái độ của Chúa Jêsus chắc chắn đã làm cho người đàn bà ngoại tình bị bắt quả tang ngạc nhiên. Người đàn bà này có phạm tội khách quan và có lẽ bà cũng đã cảm thấy phạm tội, thế nhưng Chúa Jêsus đã không như những người khác muốn kết tội bà. Ngài đã không bỏ qua tội của bà, và Ngài nói với bà một cách dịu dàng và bảo bà đừng phạm tội nữa. Những người tư vấn Cơ Đốc nên hành động cách khôn ngoan như thế, phải cố gắng để làm nhỏ đi thực tế của tội, và cũng đừng có thái độ tự cao về đạo đức. Tất cả chúng ta đều bị cám dỗ, và bất kỳ ai cũng có thể sa ngã vào tội lỗi và kinh nghiệm được nỗi đau đạo đức. Nhiệm vụ của người tư vấn không phải để kết tội, hoặc trông đợi để thấy những cảm giác phạm tội được ngăn chặn bởi ý chí của người được tư vấn. Mặc dầu là không chấp nhận tội lỗi, người tư vấn Cơ Đốc cần phải chấp nhận những người khác với lòng yêu thương và một sự vui vẻ để hiểu biết.

2.Sự thấu hiểu.

      Khi tiên tri Na-than đối diện với Đa-vít khi vua phạm tội, các vấn đề của vua rất rõ ràng: vô luân, giết người, và gian dối gớm ghiếc. Đáp ứng trước sự thách thức của Na-than, lập tức vua chấp nhận tội mình, xưng ra việc làm sai quấy của vua, và tìm thấy được sự tha thứ. Đa-vít đã thoát khỏi nỗi đau đạo đức bởi vì vua đã ăn năn tội và thay đổi.

      Tư vấn phạm tội không luôn luôn dễ dàng. Một vài người không biết tại sao họ cảm thấy có lỗi. Những người khác lại chấp nhận các hành động hoặc những thái độ sai trái của họ, thế nhưng những cảm giác phạm tội vẫn tồn tại. Có những người vi phạm luật pháp hoặc làm tổn thương đến một người khác, thế nhưng không có những cảm giác đau xót hoặc ăn năn. Đối với những người như thế, có thể giúp đỡ được nếu như có được sự hiểu biết nào đó về những áp lực ảnh hưởng đến họ từ bên trong. Người tư vấn có thể thảo luận các vấn đề này và khuyến khích giải quyết các trường hợp cụ thể:

      – Có phải có những thứ trong cuộc sống khiến cho bạn cảm thấy có lỗi chăng? Những thứ đó là gì?
– Bạn đã giải quyết thế nào trong quá khứ với những cảm giác phạm tội của mình?
– Những điều gì là hữu ích? Điều gì là không có ích?
– Những sự trông đợi nào của bạn từ bố mẹ về điều đúng và điều sai?
– Có phải các chuẩn mực của bố mẹ bạn quá cao đến nỗi bạn chẳng bao giờ có thể thành công?
– Điều gì xảy ra khi bạn thất bại?
– Bạn có thường xấu hổ khi bị chỉ trích, bị trừng phạt không?
– Hội Thánh của bạn dạy gì về điều đúng và điều sai?
– Có phải bạn có một căn bản rõ ràng về Kinh Thánh, về những sự dạy dỗ của Chúa không?
– Một vài điều gì khiến bạn cảm thấy có lỗi, thế nhưng lại không có vẻ làm phiền đến bạn?

      Các câu hỏi như thế có thể giúp người tư vấn hiểu tại sao những người được tư vấn cảm thấy có lỗi, có thể thấy được những phản ứng phòng thủ, sự tự-xét đoán, sợ hãi bị trừng phạt, các phản ứng thể chất, và những sự đáp ứng khác đối với phạm tội.

      Những người được tư vấn có thể được giúp đỡ để nhận ra những cảm giác phạm tội của họ xuất hiện thế nào từ sự huấn luyện đạo đức ở quá khứ. Có phải một người nào đó đang phấn đấu để hành động trong những phương cách nào đó hoặc muốn hoàn tất các mục đích không thể đạt đến không? Người ấy có thể phản ứng thế nào, và điều gì có thể xảy ra nếu như các mục đích không được thành công? Có phải các chuẩn mực của người ấy thích hợp với sự dạy dỗ của Kinh Thánh chăng? Có phải người được tư vấn hiểu biết những điều mà Kinh Thánh nói về sự tha thứ không? Ở đây là sự khôn ngoan liên kết với sự dạy dỗ thuộc linh.

3.Giáo dục đạo đức

      Những người được tư vấn phải được giúp đỡ để kiểm tra lại các chuẩn mực của họ về điều đúng và điều sai. Điều này có thể mất một thời gian dài. Một vài người cảm thấy có lỗi về những điều mà Kinh Thánh không gọi là tội lỗi, những người khác lại có các giá trị đạo đức vi phạm đến các chuẩn mực trong Thánh Kinh. Một vài người được tư vấn giống như các cựu chiến binh, là những người chiến đấu với nỗi đau và cảm giác về đạo đức mà chúng có thể không có hy vọng để được khuây khỏa. Những người khác có thể cố gắng với một thái độ vô tình để chấp nhận điều hợp lý của cuộc chiến tranh, để sai lầm quá khứ được giải thoát, sự chịu đựng có thể tránh khỏi được, hạnh phúc luôn luôn có thể, và khôn ngoan hướng đến sự vui vẻ.

      Đức Chúa Trời thật sự trông đợi điều gì từ con người chúng ta? Ngài biết rõ chúng ta một cách tỏ tường, Ngài biết rằng chúng ta chỉ là cát bụi và Ngài thấy được chúng ta sẽ phạm tội khi chúng ta ở trên đất. Đức Chúa Trời trông mong nơi chúng ta không phải sự hoàn hảo, nhưng một nỗ lực thành thật để thực thi ý muốn của Ngài. Ngài là Đấng thương xót cũng như Ngài là Đấng yêu thương chúng ta vô điều kiện; Ngài sẽ tha thứ tội lỗi chúng ta mà không đòi hỏi sự chuộc lỗi cá nhân nào và sự tự hành xác để hối lỗi. Sự chuộc lỗi và sự tự hành xác để hối lỗi không cần thiết nữa bởi vì Đấng Christ đã trả xong cho tội lỗi của con người “một lần đủ cả, người công bình cũng như người không công bình, và Ngài đem chúng ta đến cùng Đức Chúa Trời”.

      Điều này là nền tảng, là thích đáng và thực tế, đem đến trào lưu cách mạng giúp con người hoàn toàn tự do suy nghĩ. Giải pháp cuối cùng đối với phạm tội là những cảm giác phạm tội, là để chấp nhận nỗi đau, sự chịu đựng, những sự thất bại, hình phạt; để ăn năn tội lỗi trước trước những người khác và với Đấng Christ. Để cầu xin sự tha thứ từ nơi Chúa, tội nhân cần có một sự khao khát, thành khẩn ăn năn, thay đổi cách cư xử; và sau đó tin vào sự giúp đỡ từ nơi Chúa để được tha thứ và được chấp nhận từ Đức Chúa Trời. Ngài giúp đỡ để mỗi người có thể chấp nhận, yêu thương, tha thứ chính mình và cho những người khác.

5.Sự ăn năn và sự tha thứ.

      Có thể một người được tư vấn hiểu được điều Kinh Thánh nói về phạm tội và sự tha thứ, thế nhưng các vấn đề như những điều sau đây vẫn có thể tồn tại.

      a.Tôi không thể cầu xin sự tha thứ. Điều này không phải là nhiệm vụ của người tư vấn để ép buộc người khác cầu xin, để xưng tội, và cầu xin Đức Chúa Trời tha thứ. Đối với một vài người được tư vấn, có thể cần có thời gian để đạt đến điểm đó và người tư vấn phải vui vẻ cầu nguyện cho người được tư vấn và tiếp tục làm việc cho đến khi họ chấp nhận và tiếp nhận sự giúp đỡ, và rồi họ hiểu ra các nguyên tắc về sự tha thứ một cách rõ ràng hơn. Kinh Thánh dạy rằng để nhận được sự tha thứ sự cần có sự ăn năn và sự xưng tội. Không hiểu và nhận biết giáo lý cơ bản này của Cơ Đốc giáo, sẽ làm cho nhiều người, bao gồm các Cơ Đốc nhân, trải qua những cảm giác phạm tội không lành mạnh mà chúng hướng tới sự lo lắng, thất vọng, mất đi sự bình an bên trong, sự sợ hãi, sự tự-đánh giá chính mình thấp, sự đơn độc, và cảm giác xa lánh Đức Chúa Trời.

      b.Tôi không cảm thấy được tha thứ. Khi chúng ta xin những người khác tha thứ cho chúng ta, thỉnh thoảng chúng ta không cảm thấy được tha thứ bởi vì chúng ta không thật sự được tha thứ. Điều này không phải vậy đối với Đức Chúa Trời. Nếu như chúng ta xưng tội lỗi và dâng sự đau đớn của chúng ta cho Ngài, Ngài sẽ tha thứ chúng ta. Những cảm giác phạm tội xuất hiện thường xuyên, nhưng những người được tư vấn tìm đến với Chúa, họ có thể nghỉ ngơi trong sự đảm bảo là họ đã được tha thứ, ngay cả khi họ không cảm thấy như thế. Điều này có thể phải thường được phát biểu và đi cùng với lời cầu nguyện để đem đến cảm giác giải phóng khỏi tội lỗi.

      c.Tôi biết Đức Chúa Trời đã tha thứ cho tôi, thế nhưng tôi không thể tha thứ cho những người khác. Lewis Smedes đã viết rằng sự tha thứ là công việc khó khăn, có vẻ hầu như là không tự nhiên. Hầu hết mọi người có từng trải điều đó, và con người có lòng tha thứ chỉ khi có sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời. Có lẽ người được tư vấn sẽ đồng ý rằng “nếu như bạn đang cố gắng tha thứ; nếu như bạn điều khiển được sự tha thứ, nếu như bạn tha thứ hôm nay, ngày mai lại ghét, và phải tha thứ lần nữa vào ngày sau đó, mặc dầu như thế bạn là một người tha thứ”. Tất cả chúng ta cần Đức Chúa Trời giúp đỡ để có lòng tha thứ, đặc biệt là khi chúng ta không cảm thấy như thế.

      d.Tôi có thể tha thứ thế nào khi tôi không quên? Chỉ một mình Đức Chúa Trời có thể tha thứ và quên được. Con người có xu hướng chỉ nhớ đến tội lỗi và các sự không công bình ở quá khứ ngay cả khi họ hoàn toàn được tha thứ. Nhiều người cho rằng không là khôn ngoan để quên những lỗi lầm trong quá khứ, bằng cách cố gắng lờ đi tội lỗi ở quá khứ, một người có thể trốn tránh trách nhiệm khi điều đó lại xảy ra. Khi có sự tha thứ, những kỷ niệm có thể còn lảng vảng, thế nhưng nếu như ta khước từ sống với chúng, chúng sẽ bắt đầu mờ nhạt dần. Những kỷ niệm này sẽ trở lại, khi chúng ít được trông đợi, nhưng chúng sẽ không còn có năng lực tác động nguy hại. Khi một người tha thứ thành thật những người khác và thành thật vui vẻ nhận sự tha thứ của Đức Chúa Trời, họ sẽ suy gẫm về những sự công bằng của cuộc sống và tránh xa tội lỗi. Sự tha thứ phải đến trước nhất, kế đến là sự quên hoàn toàn hoặc quên một phần những điều tội lỗi trước đó.

NGĂN NGỪA PHẠM TỘI

      “Hãy để lương tâm bạn hướng dẫn bạn” là một lời trích dẫn thường xuyên được lặp đi lặp lại, nhưng lời trích dẫn này không phải là nguyên tắc sống khôn ngoan. Như chúng ta thấy các chuẩn mực riêng lẻ về đạo đức của mỗi người là khác nhau. Chuẩn mực đạo đức khác nhau, bởi vì sự dạy dỗ đạo đức khác nhau, và những sự trông mong từ bố mẹ của mỗi người có sự ảnh hưởng sâu sắc khác nhau trên suy nghĩ của một người về điều đúng và điều sai. Vì vậy, nơi bắt đầu sự ngăn chặn những suy nghĩ phạm tội không lành mạnh là từ khi một người còn ở với bố mẹ họ.

1.Giúp đỡ cha mẹ dạy dỗ các giá trị.

      Trẻ em (cũng như người lớn) học hỏi từ những điều mà chúng nghe được và từ môi trường xung quanh. Nếu như bố mẹ chúng hoặc các thầy cô giáo tỏ ra cứng nhắc, xét đoán, đòi hỏi, và không tha thứ, trẻ em cảm thấy như đó là những thất bại. Điều này làm thấm nhuần những cảm giác phạm tội. Bố mẹ chúng có thể được giúp đỡ để ngăn chặn những cảm giác phạm tội không lành mạnh và khuyến khích phát triển lương tâm trong lòng bọn trẻ nếu như họ có sự hiểu biết nào đó về phát triển lương tâm như đã được nói. Dạy dỗ bọn trẻ thấm nhuần một sự cam kết, một lời hứa đối với Kinh Thánh và nhấn mạnh nguyên tắc bao gồm tình yêu thương bất diệt, sự khích lệ, và lòng tha thứ. Khi những cảm giác phạm tội được cột chặt quá với sự tự-đánh giá chính mình, cần theo những hướng dẫn về sự ngăn chặn được liệt kê trong chương 21.

2.Giúp đỡ người khác tìm thấy các giá trị.

      Một nhà văn nói rằng có nhiều người từ chối hoặc làm ngơ các giá trị truyền thống, nhưng lại có khó khăn trong việc tìm kiếm các phương cách để thay thế chúng. Ông viết “Chúng ta bị bao quanh bởi các hệ thống giá trị khác nhau và thường xuyên thay đổi. Vì vậy, sự hoang mang hoặc sự không chắc chắn về các giá trị là phổ biến, và điều này hướng tới làm tăng mâu thuẫn bên trong cá nhân và sự thiếu đảm bảo cá nhân”. Các nền văn hóa ngày nay có tác động tạo ra sự hoang mang về đạo đức và sự không đảm bảo về đạo đức, có quá nhiều người đối diện với những sự hoang mang nầy.

      Các tôn giáo có thể đã cố gắng để đặt để những giá trị về đạo đức. Tôn giáo thường hướng tới sự kết tội của những người không tuân theo các tục lệ xã hội và phạm các tội khách quan, điều này như là một mục đích khiến những người đang bị hoang mang tìm kiếm.

       Hội Thánh có thể chia sẻ sự hoang mang cho nhiều người, giúp đỡ người ta kiếm tìm các chuẩn mực đạo đức thích đáng, nhận được các sự dạy dỗ và sống theo sự hướng dẫn của Thánh Kinh.

 3.Giúp đỡ các tín hữu hiểu được các giá trị.

      Trong Hội thánh, các Cơ Đốc nhân cần phải được giúp đỡ để hiểu về các chuẩn mực siêu nhiên, các tiêu chuẩn đạo đức của Đức Chúa Trời. Mỗi người tín hữu cũng nên nhận ra rằng Đức Chúa Trời hiểu được những sự yếu đuối của con người và Ngài vui lòng sẵn sàng tha thứ khi họ sa ngã. Tín đồ cũng cần cố gắng để hiểu sự khác nhau giữa những cảm giác phạm tội và nỗi đau thương có tính chất xây dựng.

      Cũng có giá trị trong việc khuyến khích nhiều người kiểm tra những sự mong ước cá nhân của họ và các chuẩn mực về điều đúng và điều sai. Nhắc nhở những người khác học biết về sự tha thứ qua kinh nghiệm và thực hành sự tha thứ. Nếu như những người trong Hội Thánh có thể tìm kiếm sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời trong sự tha thứ lẫn nhau, có thể nhận sự tha thứ từ Đức Chúa Trời và giảm đi sự cay đắng trong các suy nghĩ phạm tội. Khi người ta cố gắng tuân theo luật pháp, đáp ứng những sự trông mong từ xã hội, và làm điều mà Đức Chúa Trời muốn, thì họ ít khi phạm tội khách quan, do đó ngăn chặn sự phát triển của nhiều cảm giác phạm tội chủ quan.

      Tất cả những cảm giác phạm tội không hoàn toàn là xấu. Nhiều khi những cảm giác này kích thích chúng ta xưng tội mình ra và hành động có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, khi những cảm giác này tồn tại như là những kinh nghiệm đang được phân tích, chúng có thể gây tổn thương. Những cảm giác phạm tội thương tổn như thế thì chúng ta tìm cách ngăn chặn và loại bỏ chúng.

KẾT LUẬN

      Các chuẩn mực của Đức Chúa Trời là hoàn hảo vì Ngài chẳng bao giờ phạm tội. Chúa Jêsus chẳng bao giờ dừng các chuẩn mực của Ngài khi Ngài nói chuyện với người phạm tội. Khi đối diện với người đàn bà ngoại tình bị bắt quả tang, Chúa Jêsus bảo bà hãy đi và đừng phạm tội nữa, với hy vọng rằng lối sống của bà sẽ thay đổi một cách triệt để. Như người đàn bà này, mọi con người thường hay vấp phạm, không ai có thể đạt đến sự hoàn hảo trong đời sống mình. Con người chỉ được Đức Chúa Trời chấp nhận và được Ngài tha thứ vô điều kiện khi họ ăn năn, xưng tội mình với Ngài. Chỉ có Đấng Christ làm thay đổi đời sống của các tín đồ để họ đạt đến các chuẩn mực thiêng liêng và Ngài giúp đỡ con cái Ngài có thể đạt đến sự hoàn hảo mỗi ngày.

       Hầu hết các vấn đề được thảo luận trong cuốn sách này sẽ liên quan tới con người với tội lỗi của chính họ. Những người tư vấn có thể tham khảo để có thể cùng làm việc và giúp đỡ những người khác có thể từ bỏ hay tránh được tội lỗi. Các sự giải quyết nan đề phạm tội không được tìm thấy trong lãnh vực tâm lý học, mà nó được tìm thấy chỉ trong những sự dạy dỗ Thánh Kinh về sự tha thứ. Bởi vì Đức Chúa Trời tha thứ, chúng ta có thể tha thứ, tội lỗi của chúng ta có thể được cất bỏ, và có phương cách được đưa ra để giải quyết những cảm giác phạm tội của con người.

Hồ Kim Quốc dịch
Trịnh Phan hiệu đính


CÁC SÁCH ĐỀ NGHỊ ĐỌC THÊM

Freeman, Lucy, and Herbert S. Strean. Guilt: Letting Go. New York: Wiley, 1986.
Narramore, S. Bruce. No Condemnation. Grand Rapids, Mich.: Zondervan, 1984.
Oden, Thomas C. Guilt Free. Nashville: Abingdon, 1980.*
Smedes, Lewis B. Forgive and Forget. New York: Harper & Row, 1984.*
Tournier, Paul. Guilt and Grace. New York: Harper & Row, 1962.
Wilson, Earl. Counseling and Guilt. Waco, Tex.: Word, 1987.
* Books marked with an asterisk (*) are especially suited for counselees to read.

Bài trướcMọi Ân Sủng Tốt Lành – 18/11/2024
Bài tiếp theoLâm Đồng: Chi Hội Ka Să Gia Bắc Chào Đón Tân Quản Nhiệm